Từ Nghị quyết 70 đến Net Zero 2050: Việt Nam tăng tốc chuyển đổi năng lượng xanh
Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị được xem là kim chỉ nam cho tiến trình chuyển đổi năng lượng, với mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính và thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Năng lượng Việt Nam trước thách thức mới: Chuyển đổi nhanh nhưng phải bền vững
Áp lực chuyển dịch xanh
Trong hơn ba thập kỷ qua, năng lượng luôn là trụ cột của tăng trưởng kinh tế – xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, theo PGS-TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng, cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam vẫn “thiên lệch” về nhiên liệu hóa thạch. Báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA, 2023) cho thấy: than chiếm gần 50%, dầu mỏ và sản phẩm dầu 24,7%, khí tự nhiên 6,4%, thủy điện 6,8%, năng lượng tái tạo chỉ 3,3%, còn sinh khối và chất thải 9,1%.
Cơ cấu huy động điện nửa đầu năm 2024 cũng phản ánh xu thế tương tự: than 56,9%, thủy điện 18,9%, khí 8,6%, gió và mặt trời 13,7%, nhập khẩu 1,7% (theo EVN). Sự phụ thuộc lớn vào nhiên liệu hóa thạch khiến Việt Nam đối mặt rủi ro kép: vừa chịu tác động của biến động giá năng lượng toàn cầu, vừa chịu áp lực giảm phát thải để thực hiện cam kết Net Zero 2050 tại COP26.
Theo Vietnam Energy Outlook 2024, để đạt được mục tiêu trung hòa carbon, Việt Nam cần đầu tư 8-10 tỷ USD mỗi năm cho năng lượng tái tạo, hạ tầng và công nghệ lưu trữ. Đây là thách thức không nhỏ trong bối cảnh dư địa tài chính hạn chế và chi phí vốn cao.
Trước thực tế đó, Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về “Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045” được xem là bước ngoặt chiến lược. Nghị quyết xác định: “Phát triển năng lượng phải gắn với chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và thực hiện cam kết Net Zero 2050.”
Bốn nhóm mục tiêu lớn của Nghị quyết 70 gồm xây dựng hệ thống năng lượng hiện đại – bền vững – thông minh – đồng bộ, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 30% vào năm 2030, hướng tới 40–50% vào 2045, giảm phát thải khí nhà kính 10% vào 2030, 20% vào 2045, tiến tới trung hòa carbon 2050, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực năng lượng.
Theo ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, năng lượng có tác động “ba lần” trong quá trình chuyển đổi xanh. Một là, sản xuất năng lượng hiện nay tạo phát thải, nên bản thân ngành này phải xanh trước tiên. Hai là, năng lượng là đầu vào của mọi ngành kinh tế, do đó nếu năng lượng không xanh thì các ngành khác khó có thể xanh. Ba là, cần đảm bảo chất lượng, ổn định và giá hợp lý để duy trì cạnh tranh kinh tế.
Lộ trình hiện thực hóa Nghị quyết 70
Là tập đoàn nắm giữ vai trò chủ lực trong hệ thống điện quốc gia, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được xem là “đầu tàu” triển khai Nghị quyết 70. Theo ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN, Tập đoàn đang định hướng chuyển đổi toàn diện nhằm vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa giảm phát thải khí nhà kính 15–35% so với kịch bản thông thường đến năm 2030.
Ngay sau COP26, EVN đã hợp tác với nhiều tổ chức trong và ngoài nước để xây dựng chiến lược chuyển dịch năng lượng phù hợp với Quy hoạch điện VIII và định hướng điều chỉnh mới. Tập đoàn cũng chủ động nghiên cứu tỷ lệ hợp lý giữa các loại hình nguồn điện, kết hợp công nghệ tiên tiến để tăng hiệu suất và giảm phát thải.
Theo ông Nguyễn Tài Anh, EVN đang thúc đẩy các dự án năng lượng tái tạo, nghiên cứu điện hạt nhân thế hệ mới, hydrogen xanh, ammonia xanh và sinh khối. Một số dự án thí điểm đã được triển khai nhằm xây dựng khung kỹ thuật và đánh giá hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà máy điện than hiện hữu được cải tạo, nâng cấp, kết hợp đốt trộn sinh khối hoặc amoniac để giảm phát thải.
EVN đầu tư nâng cấp hạ tầng truyền tải nhằm tăng khả năng tích hợp năng lượng tái tạo, giảm tổn thất và đảm bảo hệ thống vận hành ổn định. Mục tiêu là xây dựng lưới điện thông minh, ứng dụng công nghệ số và AI trong giám sát, điều độ và dự báo phụ tải. Các dự án truyền tải liên kết khu vực Đông Nam Á cũng đang được nghiên cứu nhằm tăng tính linh hoạt và an ninh năng lượng khu vực.
Bên cạnh đó, EVN thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng Big Data, AI, công nghệ lưu trữ năng lượng, cùng các mô hình quản lý vận hành thông minh. Hợp tác quốc tế với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch đang giúp EVN tiếp cận công nghệ phát điện và truyền tải tiên tiến, đồng thời học hỏi mô hình thị trường điện cạnh tranh, linh hoạt hơn.
Theo ông Nguyễn Tài Anh, chi phí đầu tư cho hạ tầng năng lượng xanh ước khoảng 3–4 tỷ USD mỗi năm, vượt quá khả năng của riêng EVN. Vì vậy, Nghị quyết 70 đã mở đường cho sự tham gia của khu vực tư nhân và doanh nghiệp quốc tế, tạo cơ chế đồng đầu tư, chia sẻ rủi ro và phát triển thị trường tín chỉ carbon.
Tuy nhiên, như PGS-TS. Đặng Trần Thọ nhận định, Việt Nam vẫn đối mặt với ba thách thức lớn trong tiến trình này bởi nhu cầu điện tăng nhanh, phụ thuộc mạnh vào than và khí và năng lực lưu trữ, truyền tải yếu.
Ngoài ra, các rào cản về khoa học – công nghệ, nhân lực và tài chính xanh cũng đáng kể. Khoảng 80% thiết bị năng lượng tái tạo hiện nay là nhập khẩu, trong khi công nghiệp phụ trợ và nghiên cứu trong nước còn hạn chế. Các cơ chế như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư năng lượng sạch, chứng chỉ phát thải mới ở giai đoạn thử nghiệm.
Theo ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương), quá trình phát triển năng lượng xanh phải “hài hòa và an toàn”. Ví dụ, điện mặt trời tăng trưởng quá nhanh từng khiến hệ thống vận hành mất cân bằng. “Cần có điện chạy nền để đảm bảo ổn định, vì vậy việc quy hoạch tổng thể và đầu tư hạ tầng là yếu tố then chốt,” ông nói.
Tới đây, Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thực hiện Nghị quyết 70 sẽ tập trung tháo gỡ các vướng mắc pháp lý, đặc biệt là cho các dự án giai đoạn 2026–2030. Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ rà soát, sửa đổi Luật Điện lực, dự kiến khởi động từ tháng 6/2026, nhằm hoàn thiện thể chế cho phát triển năng lượng sạch.
PGS-TS. Đặng Trần Thọ nhấn mạnh: “Chuyển đổi năng lượng xanh không chỉ là mục tiêu môi trường mà còn là động lực tăng trưởng mới. Việt Nam cần một hệ sinh thái năng lượng xanh – nơi Nhà nước, doanh nghiệp, viện trường và xã hội cùng hành động, dựa trên nền tảng khoa học, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế”.













