Từ 'phổ cập chữ' đến 'phổ cập số'

Thời gian qua, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số trong giáo dục. Đến nay, toàn ngành đã có sự thay đổi tích cực, hình thành một hệ thống số hóa chặt chẽ tại các cơ sở giáo dục từ công tác giảng dạy, học tập đến quản lý... Những kết quả đó đã góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đóng góp tích cực vào thực hiện Đề án chuyển đổi số cùng phong trào 'Bình dân học vụ số' của tỉnh.

Bài 1: Gian nan hành trình số hóa

Chuyển đổi số trong ngành Giáo dục và Đào tạo đang từng bướcđược triển khai, mang theo kỳ vọng nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy nhiên,hành trình số hóa này vẫn còn nhiều gian nan, đặc biệt là những thách thức về hạtầng công nghệ thiếu đồng bộ, thiết bị xuống cấp, cùng với sự thiếu hụt nghiêmtrọng về nhân lực có chuyên môn CNTT. Những rào cản ấy đang ảnh hưởng trực tiếpđến tiến độ và hiệu quả thực hiện chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục, nhất laờ̉ vùng sâu, vùng xa.

Nhiều điểm trường ở vùng sâu, vùng xa chưa có điện, mạng internet khiến ứng dụng chuyển đổi số gặp khó khăn. Trong ảnh: Giáo viên điểm bản Trường PTDTBT Tiểu học Na Tông số 2 (huyện Điện Biên) tích điện năng lượng mặt trời phục vụ dạy học.

Nhiều điểm trường ở vùng sâu, vùng xa chưa có điện, mạng internet khiến ứng dụng chuyển đổi số gặp khó khăn. Trong ảnh: Giáo viên điểm bản Trường PTDTBT Tiểu học Na Tông số 2 (huyện Điện Biên) tích điện năng lượng mặt trời phục vụ dạy học.

Khó về hạ tầng, thiết bị…

Với đặc thù là tỉnh miền núi, biên giới, nhiều vùng sâu vùngxa, quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản lý giáo dục ở ĐiệnBiên vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất là một trong những ràocản lớn nhất. Ngành Giáo dục và Đào tạo hiện có 482 trường, trung tâm với 7.294lớp và 207.233 học sinh, học viên, sinh viên. Hiện nay, toàn ngành có 12.605 máy tính sử dụng cho công tácquản lý, dạy và học. Trong đó còn niên hạn 7.691 máy tính, chiếm tỷ lệ 61%; hiệncòn thiếu 5.158 máy tính so với nhu cầu. Nhiều máy tính đã xuống cấp, cấu hìnhthấp, không đủ khả năng đáp ứng các phiên bản phần mềm mới nhất. Ngoài ra, việcđầu tư cho thiết bị như: Máy chiếu, bảng tương tác, phòng học thông minh vẫncòn hạn chế, chủ yếu do kinh phí đầu tư còn thấp.

Tại nhiều địa phương, đặc biệt là các huyện vùng cao như: TủaChùa, Mường Nhé, Mường Chà, Nậm Pồ… khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bịphục vụ chuyển đổi số trong giáo dục vẫn đang là bài toán nan giải. Hầu hết cácđiểm trường đều thiếu thiết bị công nghệ thông tin như máy tính, máy chiếu, bảngtương tác; nhiều thiết bị hiện có đã cũ, cấu hình thấp, không đáp ứng được yêucầu cài đặt phần mềm học tập hiện đại.

Ông Ngô Xuân Chiến, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện NậmPồ cho biết: “Ở nhiều điểm trường vùng sâu, giáo viên vẫn phải sử dụng máy tínhđời cũ, chạy hệ điều hành lỗi thời. Có những máy chỉ khởi động được phần mềm soạnthảo văn bản, chứ không thể chạy các ứng dụng dạy học trực tuyến. Việc thiêúthiết bị khiến giáo viên rất vất vả khi phải xoay xở để chuẩn bị bài giảng số”.

Hệ thống máy tính, trang thiết bị cũ, cấu hình thấp, hết niên hạn trở thành rào cản trong quá trình thực hiện chuyển đổi số.

Hệ thống máy tính, trang thiết bị cũ, cấu hình thấp, hết niên hạn trở thành rào cản trong quá trình thực hiện chuyển đổi số.

Mặc dù toàn tỉnh Điện Biên đã đạt tỷ lệ 100% trường kết nôíinternet băng thông rộng, nhưng thực tế vẫn còn nhiều điểm trường, đặc biệt ở bậctiểu học, chưa được kết nối ổn định. Trong tổng số 1.210 điểm trường, chỉ có234 điểm có mạng băng thông rộng, 823 điểm phải dùng sóng 4G và 153 điểmchưa có internet. Điều này gây khó khăn lớn cho việc ứng dụng công nghệ vào giảngdạy, nhất là các phần mềm học tập và hệ thống quản lý yêu cầu kết nối trực tuyếnổn định.
…Thiếu về nhân lực

Trong quá trình triển khai chuyển đổi số trong ngành Giáo dụcvà Đào tạo tỉnh Điện Biên, nguồn nhân lực vẫn đang là một trong những điểm nghẽnlớn nhất. Không chỉ thiếu về số lượng, đội ngũ nhân lực phục vụ cho công tác ứngdụng công nghệ thông tin, vận hành hệ thống quản trị số còn chưa đáp ứng yêu câùvề chất lượng chuyên môn.

Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 15.760 cán bộ, giáo viên các cấp,tuy nhiên chỉ có 307 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Tin học, chiếm chưa đâỳ2% tổng số. Con số này cho thấy sự chênh lệch nghiêm trọng giữa nhu cầu thực tếvà năng lực nhân sự hiện có trong bối cảnh công nghệ ngày càng đóng vai tròthen chốt trong quản lý và giảng dạy. Nhiều trường học trên địa bàn tỉnh, đặcbiệt là ở vùng sâu, vùng xa, chỉ có duy nhất một giáo viên Tin học, đồng thơìkiêm nhiệm luôn vai trò quản trị hệ thống mạng, hỗ trợ kỹ thuật cho toàn trường,từ cập nhật phần mềm cho đến sửa chữa thiết bị.

Số lượng giáo viên chuyên về Tin học, CNTT chưa đáp ứng nhu cầu.

Số lượng giáo viên chuyên về Tin học, CNTT chưa đáp ứng nhu cầu.

Tình trạng “thiếu người - thiếu chuyên môn” đang khiến việctriển khai các nền tảng số gặp không ít trở ngại. Không ít trường học gặp khótrong khâu sử dụng phần mềm quản lý, khai thác kho học liệu số, tổ chức lớp họctrực tuyến hay thậm chí là vận hành các thiết bị trình chiếu, bảng tương tác -khi người phụ trách không được đào tạo bài bản về công nghệ thông tin.

Ông Đỗ Văn Sơn, Trường Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện TuầnGiáo chia sẻ: Hiện nay, đơn vị chưa có chuyên viên chuyên trách để tiếp nhận,triển khai các nhiệm vụ về CNTT và chuyển đổi số của cơ quan cũng nhưtrong toàn ngành. Viên chức trưng tập kiêm nhiệm nhiệm vụ chưa được đào tạo, bôìdưỡng chuyên sâu về công nghệ thông tin, đặc biệt là lĩnh vực an ninh mạng. Vìvậy, chúng tôi mong muốn các sở, ngành liên quan quan tâm mở các lớp bồi dưỡngchuyên sâu đối với chuyên viên, viên chức thực hiện các nhiệm vụ về CNTT vàchuyển đổi số của các cơ quan, đơn vị để nâng cao năng lực công nghệ thông tinđáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Đặc biệt, tại cấp học mầm non, việc triển khai chuyển đổi sốgần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự chủ động học hỏi của giáo viên vì gần nhưkhông có giáo viên chuyên trách CNTT. Trong khi đó, nhiều ứng dụng quản lý hiệnnay yêu cầu kỹ năng sử dụng phần mềm văn phòng, hệ thống báo cáo trực tuyến,khiến giáo viên mầm non gặp không ít lúng túng.

Bà Lò Thị Thời, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết:“Cơ sở vật chất và trang thiết bị CNTT hiện nay tuy đã có bước đầu đáp ứng nhiệmvụ quản lý, giảng dạy, song nhiều thiết bị đã hết niên hạn sử dụng, cấu hình thấp,không đủ để chạy các phần mềm, hệ điều hành mới. Thêm vào đó, nguồn nhân lực phụctrách CNTT tại các đơn vị chủ yếu là kiêm nhiệm, không được đào tạo chuyên sâuvà không có chế độ hỗ trợ. Đây là một trở ngại lớn trong việc triển khai cácnhiệm vụ chuyển đổi số một cách hiệu quả…”.

Ngoài ra, các phần mềm hiện nay đều được xây dựng trên nền tảngtrực tuyến, yêu cầu mạng internet ổn định, nhưng ở nhiều điểm trường thuộc cácbản vùng sâu, vùng xa, kết nối mạng vẫn còn rất hạn chế. Điều này không chỉ gâykhó khăn trong việc truy cập hệ thống mà còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thôngtin khi dữ liệu không được đồng bộ, an toàn bảo mật đúng chuẩn.

Nguồn nhân lực hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến việc chuyển đổi số và phổ cập số tại các cơ sở giáo dục.

Nguồn nhân lực hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến việc chuyển đổi số và phổ cập số tại các cơ sở giáo dục.

Trong điều kiện thiêúthốn cả về thiết bị và nhân lực, nhiều thầy cô đã không ngừng nỗ lực cập nhật kỹnăng công nghệ, tìm tòi phần mềm hỗ trợ giảng dạy, tự thiết kế bài giảng điện tửđể giúp học sinh vùng khó tiếp cận với phương pháp học tập hiện đại.Chuyển đổi số trong ngành Giáo dục không chỉ là cuộc chạyđua với công nghệ, mà còn là hành trình nâng cao chất lượng giáo dục một cách bềnvững. Mặc dù còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khía cạnh nhân lực và hạ tầng,nhưng với sự quyết tâm của toàn ngành từ các cấp quản lý đến từng giáo viên nơivùng sâu, vùng xa, chuyển đổi số vẫn đang từng bước lan tỏa rộng khắp; góp phầnquan trọng vào tiến trình chuyển đổi số trên địa bàn toàn tỉnh.

Bài 2: Biến thử thách thành cơ hội

Phạm Quang

Nguồn Điện Biên Phủ: https://baodienbienphu.vn/bai-thuong/chuyen-doi-so/tu-pho-cap-chu-den-pho-cap-so