Từ tăng trưởng hai con số, ngành nhựa Việt đứng trước bước ngoặt chuyển đổi xanh
Trước nhu cầu của thị trường và những thách thức về chi phí và pháp lý, các doanh nghiệp ngành nhựa đang từng bước tái cấu trúc ngành, lấy tiêu chuẩn ESG, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh làm động lực 'vươn mình' trong kỷ nguyên mới…

Ngành nhựa đã có những bước tiến vượt bậc trong giai đoạn 35 năm qua. Nguồn: VPA.
Sau hơn ba thập kỷ phát triển, ngành nhựa đã trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu quan trọng của đất nước, đạt quy mô khoảng 32 tỷ USD, đóng góp 6-7% giá trị sản xuất công nghiệp quốc gia và tạo việc làm cho khoảng 250.000 lao động.
BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI
Chia sẻ tại tọa đàm “Ngành Nhựa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình” ngày 22/10 nhân kỷ niệm 35 năm thành lập ngành nhựa Việt Nam (1990-2025), bà Huỳnh Thị Mỹ, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), cho biết từ một ngành công nghiệp non trẻ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa trong giai đoạn 1990-2000, ngành nhựa đã có những bước tiến vượt bậc. Giai đoạn 2005-2009 chứng kiến tốc độ tăng trưởng bùng nổ lên đến 23,4%. Bước vào giai đoạn 2015-2020, ngành đã vươn ra thế giới, khẳng định vị thế với các mốc xuất khẩu “tỷ USD”.
Dữ liệu thống kê cho thấy, nếu năm 1995, tổng sản lượng toàn ngành chỉ đạt 380 nghìn tấn, thì đến năm 2020 đã vọt lên 7,86 triệu tấn và dự kiến cán mốc 9,215 triệu tấn vào cuối năm 2025.
Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng năm 2024 đạt 23,9%, một con số ấn tượng so với năm 2023.
Về xuất khẩu, ngành đã vươn lên mạnh mẽ, xuất khẩu sang hơn 190 quốc gia. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 336 triệu USD (năm 2010) lên 3,2 tỷ USD (năm 2020) và dự kiến đạt 7 tỷ USD vào năm 2025. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của nhựa Việt Nam là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc.
Mặc dù đạt được những con số ấn tượng, song theo ông Đinh Đức Thắng, Chủ tịch Hiệp hội VPA, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Stavian, ngành nhựa Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới với nhiều yêu cầu khắt khe về môi trường, tiêu chuẩn xanh và thương mại quốc tế.
“Đây không chỉ là thách thức, mà còn là cơ hội để ngành nhựa Việt Nam tái cấu trúc, đổi mới công nghệ và chuẩn hóa quản trị theo các tiêu chuẩn ESG”, ông Thắng nhấn mạnh.

Các diễn giả trao đổi tại Tọa đàm.
Ông Thắng cho rằng các quy định mới như EPR (Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) hay thiết kế sinh thái (ecodesign) không phải là gánh nặng, mà là “động lực thúc đẩy đổi mới” giúp doanh nghiệp chủ động hội nhập. Vì vậy, trong giai đoạn tới, ngành nhựa cần xác định 5 trụ cột hành động, bao gồm: Tăng trưởng bền vững theo chiều sâu; Đẩy mạnh thiết kế sinh thái, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn; Nâng cao năng lực chứng nhận & truy xuất nguồn gốc; Hợp tác đa bên giữa Nhà nước, doanh nghiệp và đối tác quốc tế và Biến thách thức pháp lý thành lợi thế cạnh tranh.
TĂNG CƯỜNG NỘI LỰC, GIẢM PHỤ THUỘC NHẬP KHẨU
Tuy vậy, trong hành trình mới, bà Huỳnh Thị Mỹ cho rằng các doanh nghiệp nhựa sẽ đối mặt với 6 thách thức lớn liên quan tới chi phí chuyển đổi, áp lực điều chỉnh sản phẩm, khung pháp lý và tiêu chuẩn, nhận thức của cộng đồng, tác động từ chuỗi cung ứng và thay đổi cơ cấu nguyên liệu, công nghệ.
Tuy nhiên, theo bà đây cũng chính là những cơ hội cho sự chuyển đổi bền vững và mở ra những cơ hội kinh doanh mới.
Thứ nhất, là cơ hội tiếp cận các thị trường quốc tế cao cấp như EU, Nhật Bản và Mỹ, những nơi ưu tiên sản phẩm nhựa tuần hoàn và tái chế.
Thứ hai, là cơ hội tận dụng các ưu đãi tài chính - kỹ thuật. Nhiều tổ chức quốc tế như UNDP, World Bank, EU đang hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi qua tín dụng xanh và chính sách EPR.
Thứ ba, là tăng sức cạnh tranh dài hạn. Doanh nghiệp tiên phong chuyển đổi xanh, đáp ứng các tiêu chuẩn ESG sẽ nâng tầm uy tín thương hiệu, giúp doanh nghiệp dễ dàng tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn toàn cầu.
Cuối cùng, là cơ hội mở rộng thị trường sản phẩm nhựa tuần hoàn. Doanh nghiệp có thể phát triển các sản phẩm mới như bao bì phân hủy sinh học từ phế phẩm nông nghiệp (lá thông, vỏ chuối, bã mía...), nhựa PCR, hay các sản phẩm tái sử dụng.

Nguồn: VPA.
Đặc biệt, trong bối cảnh ngành vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc và Hàn Quốc thì một trong những cam kết hàng đầu của Hiệp hội VPA là chủ động nguồn nguyên liệu, giảm dần phụ thuộc nhập khẩu, thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa dầu nội địa.
Hiện tại, nguồn cung nội địa đang tăng lên đáng kể với sự vận hành của các nhà máy sản xuất nguyên liệu lớn như Hóa dầu Long Sơn, Lọc hóa dầu Nghi Sơn , Lọc hóa dầu Bình Sơn , Hyosung Vietnam và Hưng Nghiệp Formosa. Các nhà máy này đang cung cấp các chủng loại nguyên liệu cốt lõi như PP, PE, PET, PVC, tạo nền tảng vững chắc cho ngành phát triển tự chủ hơn.
“Ngành nhựa là đầu vào của hàng loạt ngành công nghiệp chủ lực khác như dệt may, điện tử, thủy sản, nông nghiệp, da giày.... Vì vậy, chúng tôi sẽ chủ động nguồn nguyên liệu, giảm dần phụ thuộc nhập khẩu, thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa dầu nội địa, và đồng thời phát triển bền vững – tuần hoàn – nhân văn hơn”, ông Đinh Đức Thắng nhấn mạnh.