Từ Tây Nguyên đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của thực dân Pháp ở Nam Đông Dương. Để ngăn cản cuộc hành quân Átlăng nhằm đánh chiếm, bình định vùng tự do Liên khu V của quân Pháp, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tham mưu đã quyết định lựa chọn Tây Nguyên là một trong bốn hướng tấn công của quân ta trong kế hoạch chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954). Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Khu ủy Khu V, quân và dân Tây Nguyên đã chiến đấu mưu trí và kiên cường, chủ động tấn công quân địch trên toàn vùng, buộc Nava phải điều lực lượng đi đối phó, khiến cho kế hoạch tập trung binh lực của quân xâm lược ngay từ đầu đã bị đảo lộn. Với chiến dịch Bắc Tây Nguyên, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 'chia lửa' với cả nước, đặc biệt là mặt trận Tây Bắc, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.

Những cố gắng cao nhất của quân Pháp ở Đông Dương

Với mong muốn cứu vãn nền hòa bình cho Đông Dương, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đàm phán và nhượng bộ với thực dân Pháp. Nhưng mùa Đông năm 1946, chúng vẫn kiên quyết mở rộng cuộc tấn công quân sự ra toàn lãnh thổ Việt Nam, hòng bình định và đặt lại ách cai trị của chúng ở Đông Dương. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã mất thế chủ động, bị thiệt hại nặng nề và sa lầy trên chiến trường Đông Dương.

Trong khi đó, lực lượng kháng chiến của quân và dân Việt Nam, từ tình thế khó khăn, bị động, đã nhanh chóng phát triển, giành được thế chủ động, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở Tây Nguyên, Liên Khu V, vùng Cao-Bắc-Lạng và các khu vực ở đồng bằng Bắc Bộ… Đến đầu năm 1953, ta đã kiểm soát được 2/3 lãnh thổ1.

Kế hoạch chiến lược quy mô lớn của Nava

Để tìm lối thoát cho quân đội Pháp, ngày 7/5/1953, được sự đồng thuận của Mỹ, Chính phủ Pháp đã cử tướng Hăngri Nava2 sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Cả Pháp và Mỹ đều kỳ vọng, với tài năng và bề dày kinh nghiệm thực chiến, Nava có thể chuyển bại thành thắng, giúp xoay chuyển cục diện ở Đông Dương theo hướng có lợi cho quân Pháp.

Sau khi nghiên cứu tình hình chiến trường, ngày 24/7/1953, Nava đã trình bày một kế hoạch quân sự cho quân đội Pháp ở Đông Dương mang tên ông ta. Nava dự kiến triển khai kế hoạch trong vòng 18 tháng, chia làm hai giai đoạn:

Giai đoạn 1, trong Đông - Xuân (1953 - 1954), giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc vĩ tuyến 18, tránh đối đầu với quân chủ lực của ta; đồng thời tiến hành tấn công chiến lược bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương, chủ yếu là mở chiến dịch Átlăng, nhằm xóa bỏ vùng tự do Liên khu V; Giai đoạn 2, Thu - Đông năm 1954 đưa quân ra miền Bắc, tấn công chiến lược và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường chính, buộc ta phải đàm phán theo hướng có lợi cho Pháp3.

Mặt trận Tây Nguyên trong kế hoạch chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) của quân và dân Việt Nam

Trước âm mưu và hành động của quân Pháp, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ của ta trong Đông - Xuân (1953 - 1954). Hội nghị nhận định: “Kế hoạch Nava có thể gây cho ta những khó khăn mới, nhưng bản thân nó có nhiều mâu thuẫn và có nhược điểm lớn”4. Từ đó, Hội nghị đề ra phương châm: “chỉ sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thế đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong khi đó đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ5.

Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương, Bộ Tổng tham mưu đã triển khai kế hoạch tác chiến theo bốn hướng: Tây Bắc và Thượng Lào; đồng bằng Bắc Bộ; Trung, Hạ Lào và phát triển sang Campuchia; Tây Nguyên (khu V), hướng chính là Tây Bắc.

Cụ thể hóa kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu, tháng 11/1953, Tổng quân ủy hướng dẫn: “Trong Đông xuân này, Liên khu 5 cần phải tập trung lực lượng tiến công lên Tây Nguyên, phát triển lên Tây Nguyên phải coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất; nhiệm vụ củng cố vùng tự do là nhiệm vụ quan trọng thứ hai”6.

Như vậy, trong kế hoạch tác chiến Đông - Xuân (1953 - 1954) thì Tây Nguyên là một trong bốn hướng tấn công phối hợp với mặt trận chính là Tây Bắc (sau này là Điện Biên Phủ 12/1953) nhằm phân tán lực lượng địch, phối hợp với Điện Biên Phủ, quyết tâm đánh bại kế hoạch quân sự của Nava.

Những trận đối đầu quyết liệt của quân và dân Tây Nguyên phối hợp với chiến trường cả nước và mặt trận chính Điện Biên Phủ

 Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Bắc Tây nguyên. Ảnh tư liệu

Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Bắc Tây nguyên. Ảnh tư liệu

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên

Trong khi chúng ta đang triển khai kế hoạch tác chiến, ngày 20/1/1954, Nava đã huy động 30 tiểu đoàn cơ động (GM) mở cuộc hành binh Átlăng tiến vào Tuy Hòa (Phú Yên) bắt đầu kế hoạch bình định, xóa bỏ vùng tự do Liên khu V.

Trước hành động của quân Pháp, Khu ủy Khu V quyết định mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên với phương châm; chỉ sử dụng bộ đội địa phương, du kích và một bộ phận nhỏ quân chủ lực để đối phó với quân Pháp, bảo vệ hậu phương, còn đại bộ phận quân chủ lực tập trung tiến công ở hướng chính phía Đông Bắc Kon Tum, hướng phối hợp trên đường 197.

Mục tiêu của chiến dịch là kiểm soát được thị xã Kon Tum và một số vị trí chiến lược quan trọng ở Bắc Tây Nguyên; tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; buộc Nava phải dừng cuộc hành quân Átlăng, phân tán lực lượng lên ứng cứu Tây Nguyên, vừa giữ vững vùng tự do Liên khu V, vừa góp phần để chiến trường chính có điều kiện chuẩn bị tốt hơn cho các trận quyết chiến chiến lược.

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên diễn ra từ ngày 27/1/1954 đến ngày 17/2/1954 bắt đầu từ hướng Kon Tum. Qua 20 ngày đêm chiến đấu, cả hai hướng tấn công của ta đã giành thắng lợi to lớn, trong đó tiêu biểu là chiến thắng Măng Đen, Măng Bút (28/1/1954), phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch, giải phóng thị xã Kon Tum (rộng hơn 13.000 km2 với gần 200 ngàn dân), quét sạch quân địch ở Bắc Tây Nguyên và tràn xuống phía Nam đến sát đường số 19.

Với chiến thắng Bắc Tây Nguyên, ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, chiếm giữ những vị trí quan trọng ở hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai, cắt đứt liên lạc giữa Pleiku với Bình Định của quân Pháp. Lo sợ mất địa bàn trọng yếu Tây Nguyên, Nava buộc phải ra lệnh dừng cuộc hành quân Átlăng, tấn công vào đồng bằng Liên khu V, vội vã điều động 11 tiểu đoàn ở Nam Bộ và Bình - Trị - Thiên lên tăng cường cho Tây Nguyên, tổ chức hai tập đoàn cứ điểm An Khê và Pleiku để đối phó với ta8.

Cuộc tấn công cứ điểm Pleiku và cứ điểm trên đường 19 - An Khê

Ngay sau chiến dịch Bắc Tây Nguyên, Đảng ủy chiến dịch đã họp và nhận định: Sau khi rút khỏi thị xã Kon Tum, địch đã đưa một phần lực lượng từ đồng bằng lên để củng cố và tổ chức lại hệ thống phòng thủ ở Tây Nguyên. Chúng bố trí lực lượng thành hai khối lớn ở thị xã Pleiku và trên đường 19 - An Khê (mỗi nơi 9 tiểu đoàn). Từ đó, Hội nghị nêu quyết tâm: Tổ chức một đợt tiến công ngắn nhưng thật mạnh vào thị xã Pleiku, và đường 19, kìm giữ lực lượng địch, không để cho chúng rút đi chi viện cho chiến trường khác; bổ sung và tổ chức thêm lực lượng mới, tăng lực lượng cơ động tấn công địch; nhanh chóng ổn định vùng mới giải phóng, sẵn sàng đánh địch lấn chiếm lại. Tăng cường chỉ đạo chiến đấu và chuẩn bị chiến đấu ở vùng tự do9.

Chấp hành chủ trương của Đảng ủy mặt trận, ngày 16/2/1954, ta mở đợt tấn công vào tuyến phòng thủ vòng ngoài thị xã Pleiku; ngày 19/2/1954, tập kích diệt 2 đại đội địch ở Đak Đoa; cùng thời điểm này, quân ta đã phục kích 2 tiểu đoàn địch tại nam Biển Hồ, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ngoài ra, bộ đội ta còn tiến hành pháo kích và tổ chức luồn sâu đánh nhiều mục tiêu cơ quan, kho tàng của địch ở ngay trung tâm thị xã Pleiku. Ở phía nam đường 19, ta diệt đồn Đắk Bớt, tiến công cơ quan ngụy quyền ở trung tâm thị trấn Cheo Reo,...

Trong khi Nava đang lúng túng trước sự đảo lộn của kế hoạch quân sự của mình, ngày 25/3/1954, bộ đội ta tiếp tục tập kích lần thứ 2 vào thị xã Pleiku, đánh vào các kho tàng, trại lính của Pháp, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Dù đang rơi vào thế bị động trên chiến trường Tây Nguyên, nhưng Nava vẫn chủ quan cho rằng, cuộc tiến công Đông - Xuân (1953 - 1954) của ta đã kết thúc, chủ lực ta trên chiến trường chính hết khả năng đánh lớn, nên ngày 12/3/1953, y đã ra lệnh cho các đơn vị tiến hành bước 2 của cuộc hành quân Átlăng, tấn công đánh chiếm tỉnh Bình Định và điều binh đoàn cơ động dù từ Hà Nội vào Quy Nhơn để hỗ trợ. Nhưng ngay hôm sau, ngày 13/3/1954, bộ đội ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bị bất ngờ và để mất phân khu Bắc sau 5 ngày chiến đấu, ngày 16/3/1954, Nava phải gấp rút điều động binh đoàn cơ động dù mới vào Quy Nhơn ra hỗ trợ cho mặt trận Điện Biên Phủ.

Phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp tiến công địch trên khắp vùng Tây Nguyên

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, Khu ủy Khu V và các địa phương vùng Tây Nguyên luôn tích cực xây dựng lực lượng, tổ chức chiến tranh du kích phối hợp tiêu diệt địch.

Từ một vùng du kích nhỏ ở Bắc Tây Nguyên, đến năm 1953 đã mở rộng ra toàn vùng, hình thành những mảng lớn có sự liên kết với nhau: Ở phía Bắc phát triển từ Đắk Tô đến Đắk Pet, Đắk Lây (Kon Tum), dọc hai bên đường 14, nối liền với vùng du kích hạ Lào; phía Đông Bắc phát triển từ Đăk Pơ (Gia Lai) nối liên lạc với các lực lượng vũ trang tuyên truyền đang hoạt động ở Campuchia; ở phía Nam, hình thành khu tam giác Cheo Reo-Buôn Hồ-M’Đrắk (Đắk Lắk), mở rộng đến đường 14, nối liên lạc được với vùng du kích Đắk Pơ ở Gia Lai; ở Lâm Đồng, ta giữ vững các khu căn cứ Anh Dũng, Là Ba, mở rộng các cơ sở du kích dọc đường 20, đường 11 trong vùng đồng bào Mạ và vùng đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc Đà Lạt.

Phối hợp với quân chủ lực, các vùng du kích của ta liên tục tấn công địch, tiêu biểu như: Cuộc nổi dậy của 6 ngàn dân ở Đắk Pơk phá tan khu dồn dân, giải phóng 23 làng; phối hợp với bộ đội địa phương và nhân dân hai bên đường 19 bao vây, rút 4 cứ điểm và giải tán ổ vũ trang phản động ở Đắk Rong; Cuộc tập kích tiêu diệt quân địch của bộ đội địa phương và du kích tỉnh Đắk Lắk ngày 18/1/1954 đã phá hủy 24 kho quân trang của Pháp dự trữ cho chiến dịch Átlăng; trận tập kích các đồn La Giày, Gia Bát, Tánh Linh trong đêm ngày 6, rạng ngày 7/4/1954 của Trung đoàn 812 và lực lượng vũ trang Lâm Đồng...

Trong khi cuộc chiến đấu của quân và dân Tây Nguyên đang phát triển mạnh, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kế hoạch Nava đã thất bại hoàn toàn. Một ngày sau đó, ngày 8/5/1954 Hội nghị Giơnevơ bàn về vấn đề Đông Dương chính thức khai mạc. Phái đoàn Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn tự tin bước vào Hội nghị với tư cách của người chiến thắng.

Được Trung ương Đảng và Bộ Tổng tham mưu chọn là một trong bốn hướng tấn công trong Đông - Xuân (1953 - 1954), mặc dù còn nhiều khó khăn và bị quân Pháp tập trung lực lượng đánh phá, nhưng nhờ biết vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, cùng sự chỉ đạo tập trung, kịp thời và tinh thần chiến đấu quật cường, quân và dân Tây Nguyên đã giáng cho địch những đòn chí tử, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch chiếm đóng vùng tự do Liên khu V.

Cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân cả nước, nhất là chiến trường Điện Biên Phủ đánh bại hoàn toàn kế hoạch quân sự Nava, buộc Chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Giơnevơ, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Chú thích:

1. Đại cương Lịch sử Việt Nam (Tập III), PGS. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Nxb. Giáo dục, 1999, tr.112.

2. Hăngri Nava (1898-1983), trong thế chiến thứ 2, là chỉ huy Sư đoàn Constantine ở Angerie (Bắc Phi). Trước khi sang Đông Dương, ông đang là vị tướng 4 sao, Tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO).

3. Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1974 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 127.

4,6,8. Nam Trung Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Viện Lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến, Hà Nội 1992, tr. 209, 210.

5,7. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr. 192, 199.

9. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 - 2005), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 177.

NGUYỄN KHẮC TRINH - Tiến sĩ, Trường Đại học Tây Nguyên

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/nhan-vat-su-kien/tu-tay-nguyen-den-chien-dich-dien-bien-phu-nam-1954-57763.html