Từ vụ học sinh lớp 7 hành hung cô giáo nghĩ về 'nghiêm sư xuất cao đồ'
Vụ học sinh lớp 7 hành hung cô giáo như tiếng chuông cảnh tỉnh về sự đứt gãy kỷ cương, về một 'vùng xám' nơi giáo dục đánh mất quyền răn dạy.
Sự việc nam sinh lớp 7 trường THCS Đại Kim giật tóc, ghìm đầu, kéo ngã cô giáo để giằng lại đồ chơi sắc nhọn trong sự thờ ơ của hàng chục học sinh trong lớp khiến nhiều người giật mình, sững sờ về sự đứt gãy kỷ cương lớp học.
Từ vụ việc trên, nhiều ý kiến liên tưởng đến chính sách mới mà Bộ GD&ĐT vừa ban hành bỏ quy định đình chỉ học sinh, chỉ giữ mức viết kiểm điểm. Không ít ý kiến cho rằng, quy định mới đề cao tính nhân văn, nhưng vẫn băn khoăn về hiệu quả thực tiễn khi hình thức kỷ luật răn đe không còn chỗ đứng trong nhà trường.

Hình ảnh nam sinh kéo ngã cô giáo trong lớp học.
“Nghiêm sư” không phải hành hạ mà để “xuất cao đồ”
Thượng tá, TS Đào Trung Hiếu, chuyên gia tội phạm học cho rằng, ngàn đời nay, đạo học phương Đông vẫn còn lưu truyền một câu châm ngôn giản dị mà hàm súc: “Nghiêm sư xuất cao đồ” - thầy nghiêm khắc mới dạy được trò giỏi. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc thầy lớn của dân tộc, từ Chu Văn An đến Nguyễn Đình Chiểu, đều nổi tiếng nghiêm minh mà học trò vẫn kính yêu, vì chính trong sự nghiêm khắc ấy ẩn chứa cái tâm lớn của người gieo mầm tri thức và nhân cách.
Vậy mà, gần đây, ngay giữa Thủ đô, dư luận sững sờ khi nghe tin một cô giáo trẻ bị học sinh hành hung ngay trong lớp học.
Để cập tiếp đến Thông tư số 19 mà Bộ GD&ĐT vừa ban hành quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh chính thức bãi bỏ hình thức đình chỉ học tập có thời hạn, hình thức kỷ luật cao nhất với học sinh chỉ còn là viết bản kiểm điểm, TS Đào Trung Hiếu cho rằng, dù chính sách này như một thông điệp nhân văn, nhưng mơ hồ rằng răn đe không còn chỗ đứng trong nhà trường.
Theo TS Đào Trung Hiếu, cha ông ta không dạy thế. “Thương cho roi cho vọt” không phải là bạo lực, mà là răn nhắc kịp thời để con trẻ khỏi sa chân. “Nghiêm sư” không phải để hành hạ, mà để “xuất cao đồ” - đào luyện nên người. Không có áp suất, không có kim cương!
Trong suốt chiều dài lịch sử, giáo dục Việt Nam vốn kết hợp giữa “dạy chữ” và “dạy người”. Muốn “dạy người” thì phải có kỷ cương. Muốn trò trưởng thành phải dạy bằng cả hai tay: tay nâng niu và tay giữ kỷ luật. Kỷ luật là trục xương sống để nhân cách non nớt tựa vào mà lớn lên, để trò hiểu đâu là giới hạn, đâu là chuẩn mực, đâu là hậu quả của hành vi sai trái.
Vì vậy, khi thầy mất quyền răn dạy, trò sẽ mất la bàn. Nhìn sang những quốc gia Đông Á - Nhật Bản, Hàn Quốc - vẫn giữ kỷ luật nghiêm minh song song với tư vấn tâm lý, trách nhiệm gia đình và sự bảo đảm quyền học tập. Chính nhờ vậy, lớp học vẫn yên ổn, thầy cô vẫn có uy tín, trò vẫn biết sợ mà tránh điều sai, kính mà học điều hay.
Sự nghiêm khắc của nhà trường không đối nghịch với lòng nhân ái, mà là điều kiện để lòng nhân ái có đất gieo. Giáo dục khai phóng, giáo dục hiện đại - dù tên gọi nào - cũng không thể bền vững nếu thiếu răn đe hợp lý.
Theo TS Hiếu, chúng ta đang ở ngã ba đường: hoặc tiếp tục mơ hồ tin rằng vài tờ kiểm điểm có thể thay thế hàng thế kỷ kỷ cương, hoặc mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật để khôi phục những “bậc thang” kỷ luật tích cực nhưng đủ sức răn đe.
Muốn trò nên người, phải để thầy có quyền nghiêm khắc; muốn thầy nghiêm khắc, phải cho thầy công cụ và cơ chế để nghiêm khắc. Một nền giáo dục tử tế cần cả trái tim yêu thương lẫn bàn tay kỷ luật.
Nghịch lý “thầy cô sợ trò”
TS Đào Trung Hiếu đề cập, trong nhịp sống hôm nay, giữa những khẩu hiệu cải cách và phương pháp nhập khẩu từ phương Tây, chúng ta đang chứng kiến một nghịch cảnh: thầy cô giáo - biểu tượng nghiêm cẩn và đạo mạo - lại trở nên e dè trước học trò; học sinh - lẽ ra phải được uốn nắn trong kỷ cương - nay nhiều em được nuông chiều như “vàng như ngọc”, dễ buông tuồng vô lễ. Đây không chỉ là sự lệch pha giữa kỳ vọng và thực tế, mà còn là khủng hoảng giá trị có căn nguyên sâu xa từ chính sách, văn hóa và tâm lý xã hội.
Theo TS Đào Trung Hiếu, những năm gần đây, giáo dục Việt Nam chuyển mạnh sang mô hình “lấy người học làm trung tâm”, khuyến khích phản biện, đề cao quyền cá nhân. Trên nguyên tắc, đây là hướng đi tiến bộ, tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Nhưng ở một xã hội vốn xây nền trên “đạo” chứ không chỉ “luật”, sự chuyển đổi ấy khi thiếu đồng bộ dễ tạo ra hệ lụy.
Học sinh được trao quyền, nhưng không được hướng dẫn trách nhiệm; phụ huynh đòi hỏi quyền lợi, nhưng ít đồng hành; nhà trường gánh áp lực thi đua, thành tích, quy định phức tạp; và người thầy đứng giữa vòng xoáy đó, nhiều khi chỉ còn biết “thủ thế” để bảo toàn danh dự nghề nghiệp.
Ở phương Tây, “học sinh là trung tâm” vận hành dựa trên luật lệ minh bạch, trách nhiệm cá nhân rõ ràng. Ở phương Đông, tâm lý cộng đồng và truyền thống “khoan dung theo tình” khiến việc trao quyền dễ bị hiểu lệch thành “thả nổi”. Thế nên, thay vì hình thành những công dân tự lập, tự trọng, chúng ta lại nuôi dưỡng những “tiểu hoàng đế” trong lớp học.

Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu, chuyên gia tội phạm học
Đề cập đến vị thế người thầy, TS Đào Trung Hiếu cho rằng, người thầy của quá khứ bước lên bục giảng với “quyền uy đạo đức” mà không cần thứ gì khác. Còn người thầy hôm nay đứng trước lớp với hàng chục chiếc điện thoại chĩa về mình, một câu nói, một ánh nhìn cũng có thể bị ghi hình, cắt ghép, bêu riếu. Đằng sau chiếc bảng đen, không ít giáo viên co mình trong chiếc vỏ an toàn, ngại nghiêm khắc vì sợ tai tiếng, ngại phê bình vì sợ kiện cáo. Hệ quả là lớp học mất dần tính kỷ cương, học trò mất đi điểm tựa đạo đức.
TS Đào Trung Hiếu cho rằng, sự đảo ngược vị thế ấy không chỉ dừng lại ở những biểu hiện vô lễ trong lớp học. Nó len lỏi vào đời sống xã hội, nơi những đứa trẻ lớn lên mà thiếu tôn trọng người dạy dỗ mình cũng khó biết tôn trọng luật lệ, cộng đồng.
Theo báo cáo của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam năm 2023, tỷ lệ học sinh có hành vi bạo lực, xúc phạm giáo viên tăng so với thập niên trước - một con số đáng báo động. Nếu không kịp thời chấn chỉnh, ta sẽ phải đối diện với một thế hệ công dân “giỏi công nghệ nhưng mù lễ nghĩa”.
Để khai mở lối thoát, TS Đào Trung Hiếu đã đưa ra những kiến nghị. Thứ nhất, khôi phục “hợp đồng văn hóa” giữa nhà trường - phụ huynh - học sinh. Nhà trường cần công khai bộ quy tắc ứng xử, cơ chế thưởng - phạt minh bạch, đồng thời gắn trách nhiệm phụ huynh với hành vi của con em mình. Không thể chỉ trao quyền cho học sinh mà không đặt ra chế tài song hành.
Thứ hai, đưa giáo dục đạo đức - lễ nghĩa trở thành mạch ngầm xuyên suốt. Giáo dục đạo đức phải hiện đại hóa về phương pháp nhưng vẫn giữ cốt lõi phương Đông, khơi dậy tinh thần tôn trọng cộng đồng, tự trọng cá nhân, hài hòa lợi ích. Có thể học hỏi phương Tây về kỹ thuật, nhưng nội dung cần “chưng cất” từ truyền thống Việt Nam.
Thứ ba cần nâng vị thế người thầy bằng chính sách và truyền thông. Chính sách phải bảo vệ giáo viên trước hành vi xúc phạm, bạo lực; truyền thông phải tôn vinh hình mẫu nhà giáo công tâm, nghiêm khắc, công bằng. Cần chấm dứt xu hướng “đẩy lỗi về phía giáo viên” mỗi khi xảy ra sự cố, thay vào đó là chia sẻ trách nhiệm.
Cùng với đó cần trang bị kỹ năng tâm lý - pháp lý cho giáo viên. Giáo viên cần được đào tạo về quản lý xung đột, kỹ năng truyền thông, kiến thức pháp lý để tự bảo vệ mình, đồng thời ứng xử khéo léo với học sinh và phụ huynh. Khen thưởng - kỷ luật minh bạch, mang tính giáo dục: Áp dụng các hình thức kỷ luật phục hồi, giúp học sinh nhận ra hậu quả và tự sửa sai, thay vì chỉ trừng phạt khô cứng hoặc buông xuôi.
Đặc biệt cần tìm lại linh hồn của giáo dục. Giáo dục không chỉ là “truyền đạt tri thức” mà là “kiến tạo con người”. Muốn thế, chúng ta không thể chỉ cải cách ở bề mặt phương pháp hay nhập khẩu mô hình ngoại lai, mà phải bắt đầu từ triết lý: người học là trung tâm nhưng người thầy là điểm tựa. Khi đạo học phương Đông được hiện đại hóa đúng cách, hòa quyện cùng kỹ năng và quản trị phương Tây, chúng ta mới khôi phục được kỷ cương học đường mà vẫn gìn giữ nhân văn. Đó là con đường duy nhất để nuôi dưỡng những thế hệ vừa tự do sáng tạo, vừa biết lễ nghĩa, để “người thầy” và “người trò” cùng đồng hành trong một không gian tôn trọng, trách nhiệm và nhân ái.