Từ vùng đầm lầy 'nghèo' đến nắm giữ thương mại nửa lục địa
Sau khi đế chế La Mã sụp đổ, những người từng được cho là nghèo khổ ở vùng đầm lầy ven biển đã trở thành những người cai trị vùng Biển Bắc và nắm giữ thương mại của nửa lục địa.
Quân đội La Mã đang trên đường chinh chiến: thế kỷ I, bên bờ Biển Bắc, gần nơi mà ngày nay biên giới nước Bỉ dừng lại và Hà Lan bắt đầu. Plinius Secundusi là một chỉ huy, và khi bắt đầu viết những câu chuyện lịch sử tự nhiên nổi tiếng của mình, ông đã nhớ lại những gì mình thấy.
Đó là vùng đầm lầy nước mặn mênh mông và ông không thấy cái cây nào. Ông không thể hiểu được mình đang trên đất liền hay trên biển. Đây đó là những ngôi nhà được xây trên đỉnh đồi và ông nghĩ chúng trông giống như những con tàu trên mặt nước, hoặc có thể giống xác tàu đắm hơn; ông cho rằng những ngôi nhà được xây dựng theo cách đó để thoát khỏi những đợt thủy triều tồi tệ nhất mỗi ngày.
Ông có vẻ khá lo lắng trong khung cảnh đầm lầy kỳ lạ này, bởi ông là người La Mã sống trong đất liền và đã quen đứng trên đất bằng rắn chắc; giờ ông nhìn thấy quang cảnh một vùng đất sét đang dịch chuyển, với những rạch cắt nhằng nhịt bởi các con lạch và khe nước nơi thủy triều đẩy nước mặn vào rồi lại rút ra.
Cũng có thể ông đã hoàn toàn xa rời đế chế vì vùng bờ biển này bị phân tách với đất liền bởi các đầm phá và vùng than bùn nước lợ, là một biên giới ngăn cách con người hoàn hảo không kém gì các khu rừng rậm và tốt hơn mọi dòng sông. Để đến được đầm lầy và những người sống gắn liền với nước, bạn phải hiểu rõ đầm lầy. Bạn cũng phải được chào đón, bởi vì bạn sẽ phải lộ diện.
Pliny quan sát những người sống gắn liền với nước và quyết định rằng họ không đáng để bận tâm chinh phục. Cá, ông viết, là tất cả những gì họ có.
Bảy thế kỷ sau đó, ý kiến này cũng không thay đổi gì nhiều. Radbodo, Giám mục vùng Utrecht, không mấy hài lòng về người Frisia, người dân ở vùng đầm lầy này: ông viết rằng họ sống trong nước như cá và họ hiếm khi đi bất cứ đâu nếu không phải bằng thuyền. Họ cũng thô thiển, man rợ và ở nơi hẻo lánh: loại người quê mùa lầy lội.
Vậy mà trong khoảng thời gian giữa hai câu chuyện này, người Frisia đã nối lại tất cả các liên kết và quan hệ trên Biển Bắc, đến tận Jutland ở mũi cực bắc Đan Mạch và thậm chí xa hơn. Họ lập ra một loại thị trấn mới trên bờ biển phát triển thịnh vượng trong khi các thị trấn La Mã cũ đang suy tàn.
Họ biến mình thành thủ đô ở bờ trái sông Rhine tại Dorestad, ngay nơi dòng sông phân tách để chảy xuống đồng bằng, và nó đã trở thành vòng xuyến của tất cả các giao dịch thương mại phương Bắc. Và họ cai trị Biển Bắc, thống trị tất cả các giao dịch đường thủy, vậy nên có lúc vùng biển này đã bị đổi cả tên gọi: Biển Frisia.
Một điều khác họ làm đã giúp định hình thế giới của chúng ta: họ tái phát minh ra tiền. Họ đã mang theo các đồng xu trong khi giao dịch làm tiền để mua, bán và kinh doanh. Các vùng lãnh thổ khác đã hết tiền mặt, hoặc phải sống nhờ quà tặng và trao đổi, hoặc ngừng sử dụng tiền cho bất cứ thứ gì khác ngoại trừ thuế và chính trị, nhưng người Frisia luôn có ý tưởng dùng tiền ở bất cứ nơi nào họ đến.
Đó hoàn toàn không phải là một ý tưởng tầm thường. Cùng với nó là ý tưởng về giá trị của mọi thứ và làm thế nào để tính toán giá trị trừu tượng đó trên giấy - giá trị mà các đối tượng trong thế giới thực chia sẻ với nhau, một cái nồi với một đống ngũ cốc với một con cá với một tấm ván với một chỗ trên chiếc thuyền ngược dòng sông Rhine, ngay cả khi có vẻ như chúng chẳng có gì chung cả.
Khái niệm về giá trị được sử dụng ở bất cứ nơi nào người Frisia tới. Giao dịch có nghĩa là lấy những giá trị đó và sử dụng nó, thậm chí thử nghiệm với nó: nhìn thế giới qua lăng kính toán học.
Tiền làm thay đổi suy nghĩ của mọi người.
[...] 100 năm sau sẽ chẳng còn gì nhiều cho Pliny có thể bỏ lỡ. Domburg đã bị bỏ rơi. Cướp biển chuyển đến, một số là dân bản địa và người Frisia, một số từ vương quốc Frank ở phía Nam.
Rome bắt đầu mất kiểm soát. Sau đó, nước đã sử dụng sức mạnh của nó: biển tràn vào và nhấn chìm các ngôi đền vào khoảng cuối thế kỷ II. Các cồn cát di chuyển, các kênh cho thuyền bè đi lại thay đổi, và vùng đất này biến mất.
Tất cả những gì còn lại là một dải cát mỏng manh mà một cơn gió lốc có thể thổi bay thành một cảnh tượng mới, một vùng bờ biển nơi nước dâng lên có thể cuốn trôi tất cả việc kinh doanh mà rất nhiều thương nhân đã cảm tạ nữ thần. Không có dấu hiệu của cuộc sống hoặc kinh doanh ở nơi đây trong gần bốn thế kỷ cho đến khi câu chuyện lại được bắt đầu.
Nhưng trong đầm lầy còn có những sà lan trĩu nặng vốn đang xuôi dòng sông Rhine từ Trung Âu, những chiếc thuyền dài 30 mét và ngang 3 mét, bánh lái cả phía trước và phía sau: vững chắc, đáy đẽo phẳng được làm từ những tấm gỗ sồi dày. Chúng được chèo xuôi theo dòng sông, mang theo đá phiến và đá tảng, hoặc rượu hoặc bình, và khi đến vùng đầm lầy, hàng hóa từ đó được bốc xếp lên các chuyến tàu vượt biển.
Từ vùng đầm lầy, hàng hóa có thể đi về phía bắc hoặc về phía nam bằng đường biển, nấp trong những hòn đảo ven bờ để tránh gió, tới tận nơi bây giờ là Calais để sang Anh hoặc trực tiếp vượt biển đến các thị trường tại York và London và thậm chí cả Southampton ngày nay, hoặc ngược lên điểm đầu của bán đảo Đan Mạch, nơi chúng có thể theo đường bộ và đường sông tới Baltic và cả Birka và Helgö ở Thụy Điển. Đầm lầy nắm giữ thương mại của cả một nửa lục địa.