Tự ý ngừng thuốc, dùng thuốc không rõ nguồn gốc để điều trị viêm gan B... 'gánh' hậu quả khôn lường

Tự ý ngừng thuốc điều trị viêm gan B, chuyển sang dùng thuốc nam không rõ nguồn gốc hoặc nghe theo những lời quảng cáo trên mạng... là tình trạng phổ biến ở nhiều bệnh nhân viêm gan B. Điều này gây ra những hậu quả khôn lường.

Đơn cử như trường hợp bệnh nhân Nguyễn Văn K. (64 tuổi, Hà Nam) vào Trung tâm Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai ngày 21/7 với triệu chứng chán ăn, mệt mỏi, vàng da. Bệnh nhân phát hiện xơ gan - viêm gan mạn cách đây 1 năm, điều trị thuốc kháng virus tại tuyến tỉnh thấy có đỡ, tuy nhiên sau đó bệnh nhân bỏ thuốc 6 tháng nay.

Theo lời kể của người nhà, 1 tuần nay bệnh nhân mệt mỏi, ăn ngủ kém, đầy bụng. Bệnh nhân đang điều trị tiểu đường nên vào Bệnh viện Nội tiết khám, xét nghiệm thấy men gan tăng cao nên được chuyển đến Trung tâm Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm gan mạn, biến chứng xơ gan, suy gan.. tiên lượng bệnh rất khó khăn.

Trường hợp thứ 2 là bệnh nhân Nguyễn Phương N. (47 tuổi, Yên Bái) phát hiện viêm gan B từ 4 năm trước, điều trị thuốc kháng virus nhưng đã tự ý bỏ thuốc 2 tháng nay. Trước khi nhập viện 1 tháng, bệnh nhân xuất hiện mệt mỏi, chán ăn, cảm giác đầy bụng, vàng da vàng mắt,.. Tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai, bệnh nhân được chẩn đoán xơ gan, men gan cao, suy gan và có chỉ định lọc máu thậm chí bác sĩ tư vấn có chỉ định ghép gan tuy nhiên với chi phí điều trị rất cao để lại gánh nặng bệnh tật cho gia đình và xã hội.

PGS.TS Đỗ Duy Cường khám bệnh cho bệnh nhân viêm gan B.

PGS.TS Đỗ Duy Cường khám bệnh cho bệnh nhân viêm gan B.

Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu người nhiễm virus viêm gan B và gần 1 triệu người nhiễm virus viêm gan C. Tuy nhiên tỷ lệ người bệnh được phát hiện và quản lý còn rất khiêm tốn. Nếu không được kiểm soát tốt, nhiều người trong số đó sẽ tiến triển thành xơ gan hoặc ung thư gan. Hàng ngày, Trung tâm Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai ghi nhận nhiều bệnh nhân đến khám và nhập viện nhưng không biết bị nhiễm virus viêm gan B, C vì đa số có triệu chứng âm thầm, kín đáo, khi đến bệnh viện đã có biến chứng xơ gan thậm chí ung thư gan.

Mặc dù các bệnh nhân viêm gan hiện nay đều được phát hiện, quản lý và theo dõi định kỳ tại phòng khám chuyên khoa hoặc được uống thuốc theo chương trình bảo hiểm y tế nhưng một số bệnh nhân sau một thời gian uống thuốc thấy đỡ nên đã tự ý bỏ thuốc dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như suy gan cấp, xơ gan mất bù, ung thư gan,...

PGS.TS Đỗ Duy Cường cho biết thêm, việc điều trị viêm gan B là điều trị suốt đời nên bệnh nhân cần được theo dõi, quản lý chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa. Nếu ngừng thuốc, bỏ thuốc thì virus sẽ bùng lên dẫn tới suy gan cấp. Rất nhiều bệnh nhân đến Trung tâm do bỏ thuốc, không tuân thủ điều trị với các triệu chứng vàng da, vàng mắt, biểu hiện xơ gan, men gan cao và suy gan.

"Bệnh viêm gan B đã có vaccine phòng bệnh. Do vậy, các bệnh nhân cần được sàng lọc, phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Thuốc điều trị viêm gan B và C hiện nay đã được BHYT chi trả nên bệnh nhân không phải lo lắng nhiều về giá thành điều trị. Điều quan trọng là người dân phải nhận thức được mức độ nguy hiểm của viêm gan với sức khỏe, thực hiện theo khuyến cáo của các chuyên gia", PGS.TS Đỗ Duy Cường nhấn mạnh.

Theo Tổ chức Y tế thế giới mỗi năm có khoảng 3 triệu ca mắc mới và 1 triệu ca tử vong mỗi năm do virus viêm gan B và C. Tuy nhiên, chỉ khoảng 10% trường hợp viêm gan B được chẩn đoán, trong đó 22% được điều trị; tương tự 21% bệnh nhân viêm gan C được chẩn đoán, trong số đó chỉ 62% được điều trị. Trên toàn cầu chỉ có 42% trẻ em được tiêm liều viêm gan B sau sinh.

Ngày 28/7 hàng năm là Ngày Viêm gan Thế giới để mọi người cùng nhau nâng cao nhận thức về bệnh viêm gan virus và chung tay hành động nhằm đẩy lùi, tiến tới thanh toán các bệnh do virus viêm gan gây ra vào năm 2030.

Chủ đề của Ngày viêm gan Thế giới năm nay là “Chúng ta không nên chờ đợi”, tức là người dân cần được khuyến khích đi khám, xét nghiệm sàng lọc để phát hiện virus viêm gan, từ đó được quản lý theo dõi và điều trị sớm, tránh biến chứng xơ gan, ung thư gan. Phụ nữ trước khi kết hôn hoặc khi có thai nên được sàng lọc xem có bị nhiễm virus viêm gan B hay không để được theo dõi, quản lý và điều trị dự phòng lây truyền mẹ sang con. Hiện nay tỷ lệ lây nhiễm viêm gan B từ mẹ sang con vẫn rất lớn, đa số là do phụ nữ có thai không được sàng lọc viêm gan B và khi trẻ sinh ra không được tiêm kháng huyết thanh và vaccine viêm gan B, hậu quả là trẻ sẽ bị nhiễm virus từ lúc còn nhỏ để lại gánh nặng bệnh tật rất lớn sau này.

Bài: Mai Thanh

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/tu-y-dung-thuoc-dung-thuoc-khong-ro-nguon-goc-de-dieu-tri-viem-gan-b-ganh-hau-qua-khon-luong-16923072721292757.htm