Tỷ lệ đóng góp của ngân sách địa phương 33% là quá lớn
Theo ĐBQH Đàng Thị Mỹ Hương (Khánh Hòa), việc quy định tỷ lệ đóng góp của ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia chiếm 33% là quá lớn, không phù hợp với năng lực của địa phương còn phụ thuộc vào vốn hỗ trợ của ngân sách trung ương.

Các đại biểu tham gia thảo luận ở Tổ 4 chiều 3/12. Ảnh: Hồ Long
Tích hợp ba chương trình để tránh chồng chéo, tập trung nguồn lực
Tại phiên thảo luận ở Tổ 4 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh: Khánh Hòa, Lai Châu và Lào Cai) chiều 3/12 về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 – 2035, các đại biểu cơ bản tán thành với chủ trương và sự cần thiết thực hiện Chương trình trong giai đoạn tiếp theo.
ĐBQH Sùng A Lềnh (Lào Cai) bày tỏ “đồng tình và ủng hộ cao” việc tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình; đồng thời mong sớm triển khai chương trình tích hợp này, không để gián đoạn nguồn lực đầu tư.
Đại biểu phân tích, thời gian qua, triển khai ba chương trình mục tiêu quốc gia đã đạt được nhiều thành quả, làm thay đổi bộ mặt các vùng khó khăn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

ĐBQH Sùng A Lềnh (Lào Cai) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Tuy nhiên, việc triển khai cũng bộc lộ hạn chế. Đó là các văn bản hướng dẫn chồng chéo, thiếu đồng bộ; các tiêu chuẩn, định mức cho việc triển khai các nội dung, tiểu dự án của chương trình khác nhau; trùng lặp về đối tượng, về địa bàn; hoặc quy định giới hạn về địa bàn mà không giới hạn đối tượng nên rất khó triển khai…
Đối với dành nguồn lực đầu tư, đại biểu Sùng A Lềnh nêu rõ, do rải rác ở 3 chương trình nên còn nhỏ lẻ, dàn trải, tính hiệu quả không cao, không bền vững.
Chẳng hạn, một công trình đường giao thông nông thôn có chiều dài 5km nhưng lại chia nguồn vốn rải rác theo giai đoạn, rất bất cập, trong khi dự toán đăng ký công trình từ cơ sở rất đầy đủ. Chính vì thế gây khó khăn cho lưu thông của người dân, nhất là lưu thông hàng hóa.
Từ thực tế đó, “việc tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia là cần thiết, để tập trung nguồn lực thực hiện các dự án”.
Đại biểu đề nghị Chính phủ rà soát các dự án đầu tư phải đúng tầm, bảo đảm bền vững, lâu dài. “Nguồn lực đầu tư phải đủ lớn, không lắt nhắt, không chia dàn trải. Tổng nguồn vốn rất lớn mà chia ra dàn trải thì không giải quyết được vấn đề”, đại biểu nhấn mạnh.
Tán thành với ý kiến trên, ĐBQH Nguyễn Quốc Luận (Lào Cai) bổ sung, việc tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia giúp tránh được sự chồng chéo về nguồn lực và cơ chế thực hiện, thuận lợi hơn cho các địa phương triển khai thực hiện.

ĐBQH Nguyễn Quốc Luận (Lào Cai) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Cũng theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận, đến nay, các chương trình này đều “hết sức hiệu quả” với hầu hết mục tiêu đã đạt được.
Chương trình đã giúp đồng bào có nguồn lực rất quý giá để ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, qua đó giảm nghèo, làm giàu; đồng thời, giúp bộ mặt nông thôn miền núi, vùng cao, vùng sâu đặc biệt khó khăn có nhiều thay đổi.
“Cá nhân tôi hết sức đồng tình với việc chúng ta tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 của chương trình”, đại biểu Nguyễn Quốc Luận phát biểu.
Tính toán lại cơ chế đóng góp của địa phương
Góp ý cụ thể, đại biểu Nguyễn Quốc Luận đề xuất, dự thảo Nghị quyết cần bổ sung quy định về cơ chế, chính sách đặc thù trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia.
Bởi lẽ, Chương trình này thực hiện ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Nếu không có chính sách đặc thù sẽ rất khó và rất vướng. “Quốc hội nên có cơ chế, chính sách đặc thù riêng để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia thì mới tạo thuận lợi cho địa phương triển khai thực hiện, phát huy tối đa hiệu quả đầu tư của Nhà nước”, đại biểu phân tích.
Một nội dung được nhiều đại biểu quan tâm là nguồn kinh phí đầu tư cho Chương trình. Chính phủ dự kiến 1,23 triệu tỷ đồng. Trước mắt, vốn ngân sách trung ương hỗ trợ trực tiếp khoảng 100.000 tỷ đồng; ngân sách địa phương là 400 nghìn tỷ đồng (chiếm 33%).
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận chỉ ra, hiện nhiều địa phương vẫn chưa tự cân đối thu chi nên quy định như dự thảo Nghị quyết sẽ khó.
“Nên chăng quy định tính toán lại cơ chế đóng góp của địa phương và nên đóng góp theo từng hợp phần. Hợp phần thứ nhất về nông thôn mới và giảm nghèo thì ngân sách trung ương là vốn mồi, còn ngân sách địa phương đóng góp nhiều. Nhưng đối với hợp phần thứ hai về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi thì ngân sách trung ương phải là chính, vì hầu hết nằm ở các tỉnh miền núi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn”, đại biểu đề nghị.

ĐBQH Đàng Thị Mỹ Hương (Khánh Hòa) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Chia sẻ với ý kiến trên, ĐBQH Đàng Thị Mỹ Hương (Khánh Hòa) cho rằng, quy định tỷ lệ đóng góp của ngân sách địa phương là 33% là quá lớn, không phù hợp với năng lực của các địa phương còn phụ thuộc vào vốn hỗ trợ của ngân sách trung ương. Nhiều địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì thực tế khả năng vốn đối ứng tối đa chỉ 10%.
“Để tránh tình trạng địa phương không đủ vốn đối ứng, dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện dự án, cần nghiên cứu bổ sung nguyên tắc phân bổ vốn đối ứng dựa vào từng khả năng của địa phương. Dự thảo Nghị quyết cần nêu quy định mạnh hơn: đối với các tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số thì tỷ lệ vốn đối ứng thấp hơn, mức thấp hơn như thế nào thì cần có nghiên cứu quy định thêm”, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương đề nghị.
Nên ưu tiên nguồn lực cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
Theo ĐBQH Chamaleá Thị Thủy (Khánh Hòa), vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chiếm khoảng 75% diện tích cả nước, nhưng chỉ đóng góp chưa tới 20% GDP quốc gia, thể hiện sự chênh lệch lớn về phát triển kinh tế - xã hội.

ĐBQH Chamalea Thị Thủy (Khánh Hòa) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực này cao gấp 3 - 4 lần mức trung bình của cả nước, với nhiều địa phương có tỷ lệ hộ nghèo lên tới hơn 50%. Các hạ tầng cơ bản của vùng này còn rất thiếu thốn, nhiều xã chưa có đường giao thông kết nối, thiếu trường học, trạm y tế, và nước sạch.
“Chính phủ cần nghiên cứu ưu tiên điều chỉnh phân bổ nguồn lực theo hướng rõ rệt hơn. Theo đó, tập trung ít nhất 70% tổng nguồn lực vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, cần huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội hóa, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng vào các chương trình phát triển”, đại biểu đề nghị.
Cũng theo đại biểu Chamaleá Thị Thủy, để bảo đảm hiệu quả đầu tư cũng như ưu tiên đầu tư vào vùng này, Chính phủ cần tập trung vào các vấn đề cốt lõi như: hạ tầng thiết yếu (giao thông, điện, nước sạch, trường học, cơ sở y tế); sinh kế bền vững (phát triển nông nghiệp hữu cơ, du lịch cộng đồng, ngành nghề truyền thống); quan tâm giáo dục và đào tạo nghề (tăng cường đào tạo nghề miễn phí, đặc biệt cho thanh niên dân tộc thiểu số); triển khai ứng dụng công nghệ số để giám sát và triển khai chương trình hiệu quả hơn.

ĐBQH Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Cơ bản tán thành với dự thảo Nghị quyết, ĐBQH Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu) đề nghị, cần rà soát mục tiêu để tránh chồng chéo, trùng lặp với các chương trình mục tiêu quốc gia khác (về giáo dục; về y tế, chăm sóc sức khỏe…).
Cùng với đó, cần có nguyên tắc bảo đảm phân bổ vốn cho phù hợp; có chính sách ưu tiên và phải quy định rõ. Đồng thời, có hướng dẫn sớm để triển khai các chương trình hiệu quả.
Để tránh dàn trải, cần thống nhất giao một cơ quan chủ trì phối hợp thực hiện, cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Dân tộc và Tôn giáo để triển khai.
Tuy nhiên, đại biểu băn khoăn khi chương trình lớn, nếu giao cho một bộ hoặc ở địa phương thì giao về cho Sở Nông nghiệp và Môi trường liệu có bảo đảm?
Đại biểu Hoàng Quốc Khánh đề nghị cân nhắc, rà soát để hợp phần nào có thể giao cho Bộ Dân tộc và Tôn giáo cũng nên tính toán hợp lý, tuy nhiên vẫn phải bảo đảm chỉ có một cơ quan chủ trì.













