Tỷ lệ sinh mổ của Việt Nam tăng liên tục, vượt xa khuyến cáo của WHO
Tỉ lệ mổ lấy thai ở Việt Nam tăng liên tục trong 15 năm qua, lên tới gần 37% trong năm 2022, cao hơn rất nhiều so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Theo báo cáo Tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em năm 2022 của Bộ Y tế, tỷ lệ mổ lấy thai ở Việt Nam tăng liên tục trong 15 năm qua. Năm 2005, tỷ lệ sinh mổ ở Việt Nam là 12%. Tới năm 2022, tỷ lệ này là 37%.
Theo khuyến cáo của WHO, tỷ lệ này thông thường giao động từ 10-15% để tránh tai biến nguy hiểm cho mẹ và thai nhi.
Điều tra đo lường các chỉ số Mục tiêu Phát triển Bền vững của Việt Nam về trẻ em và phụ nữ (SDGCW) 2020-2021 cho biết, tỷ lệ sinh mổ tại Việt Nam chiếm 34,4% tổng các ca đẻ, tăng gần 7% so với năm 2014. Trong đó, hơn 20% trường hợp quyết định trước khi chuyển dạ và gần 14% quyết định sau đó.
Ở thành thị, tỷ lệ sinh mổ cao hơn hẳn, với hơn 43% các ca đẻ. Gần một nửa số sản phụ thành thị lựa chọn sinh mổ tại cơ sở y tế tư nhân.
Tỷ lệ sinh mổ tăng cao làm dấy lên mối lo ngại lạm dụng kỹ thuật này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi. Bộ Y tế cho rằng cần có những can thiệp toàn diện đến hệ thống y tế, cán bộ y tế và cả cộng đồng để có thể giảm các trường hợp mổ lấy thai không đúng chỉ định chuyên môn.
Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, mỗi năm có hơn 20.000 ca đẻ, trong đó hơn một nửa là mổ. Tỷ lệ đẻ mổ tăng dần theo các năm. 5 năm gần đây (2015 đến 2019), trong hơn 110.000 ca sinh nở tại bệnh viện có gần 68.000 ca mổ, tức là hơn 50%, và gấp đôi so với 10 năm trước đó.
PGS.TS Trần Danh Cường - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho rằng, tỷ lệ đẻ mổ ở Việt Nam như vậy là rất cao. Ông Cường phân tích tỷ lệ mổ đẻ tăng vì ngày nay tỷ lệ chủ động mổ lấy thai theo yêu cầu cũng tăng cao. Nhiều gia đình mong muốn sinh con theo giờ, theo ngày đã được lựa chọn trước. Các biến chứng liên quan đến chuyển dạ cũng khó lường. Trường hợp khó đẻ, bác sĩ thường chuyển sang đẻ mổ, không kiên trì chờ sinh thường bởi áp lực sợ bệnh nhân chuyển biến xấu.
Khi một phụ nữ đẻ con đầu lòng bằng phương pháp mổ thì con thứ 2, thứ 3 chắc chắn phải mổ. Đây cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ đẻ mổ tăng lên.
Ngoài ra, như Bệnh viện Phụ sản Trung ương là tuyến cuối về sản phụ khoa ở miền Bắc, tập trung nhiều bệnh nhân là mẹ hoặc thai nhi mắc bệnh lý, ở nhiều địa phương khác chuyển về. Có những trường hợp dọa đẻ non, thụ tinh trong ống nghiệm, thai chậm phát triển trong tử cung, hay thai phụ bị tiền sản giật, nhau cài răng lược... bắt buộc phải mổ lấy thai.
Theo PGS Trần Danh Cường, đẻ mổ cả mẹ và bé có thể gặp nhiều nguy cơ hơn sinh thường. Người mẹ sinh thường không gặp các biến chứng của sinh mổ như gây tê màng cứng, gây mê, chảy máu vết mổ sau đẻ. Sau sinh, mẹ đẻ thường có sữa nhiều do trong quá trình chuyển dạ sẽ kích hoạt hệ thống nội tiết. Ngoài ra, thời gian hồi phục của sản phụ sau đẻ thường sẽ ngắn hơn.
Phụ nữ đã trải qua mổ lấy thai, ở lần mang thai tiếp theo sẽ tăng nguy cơ vỡ tử cung (đặc biệt những tháng cuối thai kỳ, lúc chuyển dạ) do thành tử cung mỏng. Nguy cơ vỡ tử cung khi có sẹo mổ cũ hai lần cao gấp đôi so với sẹo mổ cũ một lần.
PGS Cường khuyến cáo, chỉ sinh mổ trong trường hợp mổ lấy thai là chỉ định bắt buộc.