Ứng dụng công nghệ hồi sinh ngôn ngữ dân tộc thiểu số

Nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy cơ 'ngủ quên' trong chính cộng đồng của mình. Trước thách thức sống còn ấy, công nghệ số không chỉ đóng vai trò kho lưu trữ mà đang giúp hồi sinh, lan tỏa mạch nguồn văn hóa của các tộc người.

Nguy cơ mai một “mã gene” văn hóa

Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có trên 30 dân tộc sở hữu hệ thống chữ viết riêng. Đây là những di sản vô giá, minh chứng cho trình độ phát triển văn hóa lâu đời của các tộc người trên dải đất hình chữ S. Có thể kể đến những hệ chữ viết có lịch sử hàng nghìn năm của người Khmer, người Chăm hay các hệ chữ Nôm - Tày, Nôm - Dao, chữ Thái cổ...

Nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc nhận định, chữ viết ra đời là một trong những thành tựu lớn khi xã hội phát triển đến một trình độ văn minh nhất định. Chữ viết không chỉ phản ánh phong tục, tập quán, tâm linh mà còn giúp hiểu thêm về nền văn hóa đậm đà bản sắc còn ẩn sâu trong dân gian.

“Ngôn ngữ chính là sợi dây kết nối các thành viên trong cộng đồng, là phương tiện để tiền nhân gửi gắm những tri thức bản địa và lời răn dạy cho thế hệ mai sau. Bảo tồn chữ viết bởi vậy chính là bảo tồn giá trị căn cốt nhất của văn hóa tộc người”, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc nhấn mạnh.

Trang Cơ sở dữ liệu điện tử tiếng đồng bào dân tộc thiểu số Việt - Hrê, Việt - Co của tỉnh Quảng Ngãi.

Trang Cơ sở dữ liệu điện tử tiếng đồng bào dân tộc thiểu số Việt - Hrê, Việt - Co của tỉnh Quảng Ngãi.

Thực tế, bức tranh đa dạng của ngôn ngữ dân tộc đang đối mặt với thách thức bị lãng quên ngay trong chính đời sống thường nhật. Tình trạng này đặc biệt báo động đối với nhóm các dân tộc rất ít người như Brâu, Si La, Rơ Măm, Pu Péo, Ơ Đu...

Trên nhiều diễn đàn, TS. Trần Hữu Sơn cảnh báo nhiều dân tộc không còn nói tiếng mẹ đẻ. Như người Bố Y ở Lào Cai không còn nhớ tiếng mẹ đẻ, đã chuyển sang nói tiếng Quan thoại, còn người Bố Y ở Tuyên Quang lại chủ yếu nói tiếng Giáy và tiếng Tày. Người Phù Lá có 2 ngành là Pu Là và Xa Phó. Trong khi người Xa Phó còn giữ được tiếng mẹ đẻ thì người Pu Là đã chuyển sang sử dụng tiếng Quan thoại.

Các chuyên gia cho rằng, thách thức trong việc giữ ngôn ngữ của các nhóm dân tộc xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Do số lượng người nói quá ít, cộng với địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng núi cao, biệt lập, hạn chế ảnh hưởng của hệ thống chữ viết, văn hóa ra cộng đồng. Nếu không can thiệp kịp thời, sự đứt gãy trong trao truyền ngôn ngữ giữa các thế hệ là điều khó tránh khỏi.

Ứng dụng công nghệ để bảo tồn, lan tỏa

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có định hướng chiến lược khuyến khích bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân tộc và biên soạn, xuất bản sách bằng tiếng dân tộc. Đặc biệt, giải pháp số hóa, xây dựng ngân hàng dữ liệu số được xác định là kênh quan trọng giúp bà con có ý thức bảo tồn, phát triển tiếng mẹ đẻ và hình thành kênh tài nguyên truyền thụ ngôn ngữ cho thế hệ sau.

Nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số đứng trước nguy cơ “ngủ quên” trong chính cộng đồng của mình. Nguồn: TTXVN

Nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số đứng trước nguy cơ “ngủ quên” trong chính cộng đồng của mình. Nguồn: TTXVN

Đặc biệt, từ nguồn lực Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (Dự án 6, Dự án 10), nhiều chương trình, dự án số hóa ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được thực hiện. Đơn cử, Thư viện tỉnh Sơn La đã tiến hành số hóa hàng chục nghìn tài liệu, hàng nghìn cuốn sách bằng tiếng Thái cổ. Hay tại Quảng Ngãi, dự án Xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử tiếng đồng bào dân tộc thiểu số Việt - Hrê, Việt - Co tạo ra ngân hàng dữ liệu phục vụ tra cứu và nghiên cứu lâu dài. Kết quả nổi bật của dự án là xây dựng website tích hợp API, cho phép tra cứu, gõ từ tiếng dân tộc và dịch xuôi - ngược, góp phần xóa nhòa khoảng cách ngôn ngữ.

Dù vậy hành trình số hóa ngôn ngữ còn nhiều chông gai. Sự thiếu thống nhất về định dạng chữ viết (chữ Phạn, chữ Latin, chữ tượng hình...) đòi hỏi giải pháp công nghệ chuyên sâu hơn. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đang tác động tích cực đến đời sống văn hóa, trong đó có công tác số hóa ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Trong bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng, cần tăng cường nguồn lực, xây dựng kho dữ liệu mở, liên thông và kết nối các kênh dữ liệu nhằm phục vụ công tác bảo tồn, phát triển ngôn ngữ dân tộc thiểu số.

Để số hóa ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, nhất là chữ viết, đạt hiệu quả, cần rà soát, kiểm kê, sớm có quy hoạch tổng thể về phân bổ ký tự cho ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Qua đó, giúp công tác số hóa dữ liệu đạt chuẩn đồng bộ. Đồng thời, tăng cường hỗ trợ nguồn lực cho các dự án, chương trình về số hóa ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, có cơ chế động viên, khuyến khích nhà nghiên cứu, chuyên gia ngôn ngữ, chuyên gia công nghệ, cộng đồng... đồng hành, tham gia đóng góp vào quá trình mã hóa các ký tự, góp phần số hóa ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, đặc biệt ưu tiên các ngôn ngữ có nguy cơ mai một, biến mất.

Bảo tồn ngôn ngữ các dân tộc thiểu số như hành trình "truyền lửa" bền bỉ. Trong kỷ nguyên 4.0, công nghệ số đang góp phần thổi bùng ngọn lửa ấy. Với chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chung tay của cộng đồng là cách để vẻ đẹp ngôn ngữ của các dân tộc mãi được giữ gìn, lan tỏa trong đời sống.

(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)

Khôi Nguyên

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/ung-dung-cong-nghe-hoi-sinh-ngon-ngu-dan-toc-thieu-so-10400207.html