Uốn ván: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh

Uốn ván là bệnh lý truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, nhất là ở trẻ em với tỷ lệ tử vong lên đến 95% nếu phát bệnh. Bệnh cũng thường gặp nhiều ở những vùng nông nghiệp và những nơi phải tiếp xúc với chất thải của súc vật.

Hiện nay, người dân có thể chủ động phòng ngừa uốn ván bằng cách tiêm vaccine uốn ván để tạo khả năng miễn dịch chống lại trực khuẩn gây bệnh.

NỘI DUNG

1. Nguyên nhân gây uốn ván

2. Biểu hiện của uốn ván

3. Bệnh uốn ván có lây không?

4. Cách phòng bệnh uốn ván

5. Cách điều trị uốn ván

1. Nguyên nhân gây uốn ván

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani phát triển tại vết thương gây ra.

Bệnh uốn ván gây ra do vi khuẩn uốn ván Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể thông qua các vết trầy xước và vết thương tiếp xúc trực tiếp với đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa, gia cầm, cống rãnh hoặc dụng cụ phẫu thuật không được tiệt trùng kỹ. Những vết thương này có thể phát triển thành ổ nhiễm trùng và gây ra bệnh uốn ván.

Bệnh uốn ván có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời.

Bệnh uốn ván có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời.

Ghi nhận thực tế, vi khuẩn nhất là bào tử uốn ván có khắp nơi trong đất cát, khói bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ… xâm nhập vào các vết thương, bị nhiễm đất bẩn, bụi đường, phân người hoặc súc vật, qua các vết rách, vết bỏng, vết thương dập nát, vết thương nhẹ…

Một số trường hợp phẫu thuật hay nạo phá thai trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh cũng có khả năng bị nhiễm bệnh. Trẻ sơ sinh cũng có nguy cơ mắc bệnh, gọi là uốn ván sơ sinh.

2. Biểu hiện của uốn ván

Bệnh uốn ván khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày.

Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng.

Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi. Do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ.

Khi có bất cứ nghi ngờ mắc bệnh uốn ván, người bệnh nên đi khám và tiêm phòng uốn ván càng sớm càng tốt.

Khi có bất cứ nghi ngờ mắc bệnh uốn ván, người bệnh nên đi khám và tiêm phòng uốn ván càng sớm càng tốt.

Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể này vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng.

Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

3. Bệnh uốn ván có lây không?

Bệnh uốn ván không thể lây nhiễm từ người sang người. Tuy nhiên, chúng lại rất dễ lây nhiễm khi thương hở tiếp xúc trực tiếp tại những môi trường có vi khuẩn uốn ván tồn tại.

Thông thường, nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể con người thông qua các vết thương sâu đã bị nhiễm bẩn từ đất cát, bụi bẩn, phân người hoặc phân súc vật. Chúng cũng có thể tấn công các vết rách, vết bỏng, vết thương dập nát hoặc các vết thương nhẹ hoặc thông qua các vết tiêm chích bị nhiễm bẩn.

4. Cách phòng bệnh uốn ván

Để phòng bệnh uốn ván hiệu quả, nên tiến hành tiêm phòng vaccine. Việc tiêm phòng sẽ đảm bảo cho không bị nhiễm bệnh trong một khoảng thời gian. Một số đối tượng cần tiêm phòng bệnh như:

Phụ nữ trong độ tuổi sinh con hoặc đang mang thai: việc tiêm phòng vaccine đối với phụ nữ đang trong độ tuổi sinh sản hoặc đang mang thai là điều vô cùng quan trọng và cần thiết để bảo vệ mẹ và bé. Bởi khi trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng uốn ván, nguy cơ tử vong có thể đạt tới 90%.

Nông dân là một bộ phận đối tượng có nguy cơ cao dễ mắc bệnh. Bởi người nông dân thường hay tiếp xúc với bùn đất, phân của các loài động vật,... Nếu không may trong quá trình làm việc dẫn tới bị thương thì người nông dân rất dễ bị nhiễm bệnh.

Bên cạnh người nông dân thì công nhân cũng là đối tượng nên tiêm phòng vaccine. Điều này sẽ giúp hạn chế tối đa nguy cơ nhiễm bệnh khi không may bạn gặp phải tai nạn chốn công trường như dẫm phải đinh gỉ sét.

Trẻ em dưới 1 tuổi sẽ được tiêm vaccine phối hợp phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và viêm phổi/màng não do vi khuẩn Hib. Và ngay khi có bất cứ nghi ngờ mắc bệnh uốn ván, người bệnh nên đi khám và tiêm phòng uốn ván càng sớm càng tốt.

5. Cách điều trị uốn ván

Hiện tại, không có phương pháp chữa trị hiệu quả bệnh uốn ván. Nếu nhiễm trùng uốn ván xảy ra, bệnh nhân cần được chăm sóc và điều trị khẩn cấp và lâu dài để giúp hạn chế triệu chứng bệnh và tăng cường đề kháng. Việc điều trị là chăm sóc vết thương, sử dụng thuốc giảm triệu chứng và cung cấp chăm sóc hỗ trợ chuyên nghiệp, thường là trong phòng chăm sóc đặc biệt.

Tùy thuộc vào từng mức độ nhiễm bệnh của người mắc mà các bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Khi tiến hành điều trị cho người nhiễm bệnh, mọi người nên lưu ý một số nguyên tắc, cụ thể như:

Cần tạo cho bệnh nhân có được một không gian nghỉ ngơi yên tĩnh. Không được làm phiền hay tạo cho bệnh nhân những kích thích mạnh.
Trong quá trình điều trị cần sử dụng kháng sinh để có thể tiêu diệt hết các vi khuẩn.
Khống chế những biểu hiện gây nên tình trạng nguy hiểm cho tính mạng của bệnh như như cứng cơ, rối loạn thần kinh,...
Điều trị hỗ trợ ví dụ như đặt máy thở trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm nặng. Sau khi bệnh nhân đã được điều trị phục hồi thì cần tiêm phòng vaccine để đảm bảo bệnh sẽ không tái phát.

Việc chăm sóc bệnh nhân cần thực hiện trong một môi trường yên tĩnh để giám sát chức năng tim, phổi và hạn chế các tác nhân kích thích. Bảo vệ đường thở và vết thương sạch sẽ là rất quan trọng, cần loại bỏ triệt để các dị vật cắm vào vết thương.

BS Nguyễn Thanh Huyền

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/uon-van-nguyen-nhan-bieu-hien-cach-dieu-tri-va-phong-benh-169240706184655126.htm