Vai trò của HTXDVNN trong phát triển sản xuất nông nghiệp ở Kim Bảng
Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp của thị xã Kim Bảng đã có sự thay đổi đáng kể. Hầu hết các địa phương của thị xã đều xây dựng được vùng sản xuất theo hướng hàng hóa, tập trung, gắn với tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp; trong đó, các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTXDVNN) đóng vai trò quan trọng.
Qua tìm hiểu được biết, các HTXDVNN của thị xã (trừ HTXDVNN Ba Sao không có đất lúa) đều làm tốt các khâu dịch vụ thiết yếu, gồm: Thủy nông, khuyến nông, bảo vệ thực vật và thú y. Hơn 70% các HTX triển khai được những dịch vụ thỏa thuận, như: Cung ứng giống, vật tư phân bón, tiêu thụ sản phẩm… Điển hình như HTXDVNN Đồng Hóa hoạt động với tổng số 7 khâu dịch vụ phục vụ sản xuất; trong đó có 4 khâu dịch vụ thiết yếu (thủy nông, khuyến nông, bảo vệ thực vật và thú y); 2 khâu dịch vụ thỏa thuận (cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm). Các dịch vụ này đều được HTX tổ chức với chất lượng cao nhất phục vụ sản xuất. Với dịch vụ thủy nông, hằng năm, HTXDVNN Đồng Hóa đều thực hiện nạo vét kênh mương; đồng thời, tu sửa, bảo dưỡng các trạm bơm điện nội đồng đáp ứng năng lực hoạt động…

Dịch vụ cấy máy được HTXDVNN Tượng Lĩnh thực hiện hiệu quả.
Cũng như Đồng Hóa, HTXDVNN Tượng Lĩnh, ngoài các dịch vụ thiết yếu đã làm tốt các dịch vụ thỏa thuận, gồm: Cung ứng vật tư (phân bón, giống lúa), tiêu thụ sản phẩm (ngô nếp, thóc), dịch vụ mạ khay, cấy máy. Riêng dịch vụ mạ khay, cấy máy, Hội đồng quản trị HTXDVNN Tượng Lĩnh đã tổ chức 3 tổ dịch vụ với tổng số 9 máy cấy động cơ của hãng Kubota đảm nhận làm dịch vụ cho hơn 80% diện tích gieo cấy…Theo ông Nguyễn Văn Sâm, Giám đốc HTXDVNN Tượng Lĩnh, dịch vụ của HTX đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất. Hiện HTX có đến 80% diện tích lúa được cấy máy do dịch vụ mạ khay, cấy máy của các tổ dịch vụ được bảo đảm cả về thời gian và chất lượng.
Cùng với hoạt động dịch vụ, các HTXDVNN trên địa bàn thị xã Kim Bảng đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, điều hành sản xuất. Hội đồng quản trị các HTXDVNN thực hiện quy hoạch vùng sản xuất theo hướng tập trung gieo cấy lúa và cây trồng hàng hóa. Mỗi năm, diện tích sản xuất cây trồng hàng hóa của thị xã (gồm cả vụ xuân, vụ hè thu và vụ đông) lên đến gần 1.000 ha. Riêng diện tích trồng dưa chuột cho giá trị cao đạt khoảng 600 – 700 ha/năm. Trên địa bàn thị xã, phần lớn các xã, phường đã xây dựng và duy trì sản xuất trên các cánh đồng mẫu. Hiện, toàn thị xã có 15 cánh đồng mẫu của 12 xã phường, với tổng diện tích gần 500 ha; một số địa phương bị giảm cánh đồng mẫu do thu hồi đất. Trên các cánh đồng mẫu, các HTXDVNN tổ chức cấy cùng giống, cùng trà, cùng quy trình chăm sóc, gắn kết 3 vụ trong năm với 2 vụ lúa và vụ đông hàng hóa. Nhiều cánh đồng mẫu được áp dụng đưa cơ giới hóa vào cả khâu gieo cấy và phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay điều khiển từ xa. Một số cánh đồng được liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị. Điển hình như tại xã Nguyễn Úy đã xây dựng được 2 cánh đồng mẫu có diện tích 30 ha/cánh đồng. Trên các cánh đồng này, HTXDVNN Nguyễn Úy đã liên kết với Công ty TNHH Nam Dương (Khu công nghiệp Đồng Văn, thị xã Duy Tiên) sản xuất giống lúa thuần nguyên chủng. Doanh nghiệp liên kết cung cấp giống, hướng dẫn kỹ thuật và thu mua toàn bộ sản phẩm cho người dân với giá cao hơn cấy lúa thương phẩm khoảng 10%... Theo người dân các địa phương, công tác tổ chức và điều hành của HTXDVNN đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất. Trên đồng ruộng, các mô hình sản xuất đều phát huy tốt hiệu quả. Nhờ vậy sản xuất đã đem lại lợi nhuận, trở thành nguồn thu chính cho người dân nhiều địa phương.
Hiện, toàn thị xã có 15 cánh đồng mẫu của 12 xã phường, với tổng diện tích gần 500 ha; một số địa phương bị giảm cánh đồng mẫu do thu hồi đất. Trên các cánh đồng mẫu, các HTXDVNN tổ chức cấy cùng giống, cùng trà, cùng quy trình chăm sóc, gắn kết 3 vụ trong năm với 2 vụ lúa và vụ đông hàng hóa. Nhiều cánh đồng mẫu được áp dụng đưa cơ giới hóa vào cả khâu gieo cấy và phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay điều khiển từ xa.
Nhờ hiệu quả hoạt động của các HTXDVNN, sản xuất trên đồng ruộng của thị xã Kim Bảng có sự thay đổi căn bản, khai thác tốt được tiềm năng, thế mạnh đất đai. Ở 2 vụ lúa, đã có trên 470 ha sản xuất theo hướng tập trung gắn với tiêu thụ sản phẩm, tăng giá trị, lợi nhuận lên từ 7 – 10% so với sản xuất đại trà. Riêng diện tích trồng dưa chuột chuyển đổi trên đất lúa trong vụ xuân, vụ hè thu và ở vụ đông cho giá trị bình quân lên đến gần 10 triệu đồng/sào/vụ, gấp 3 – 4 lần cấy lúa. Nhiều hộ phát triển trồng cây dưa chuột diện tích lên đến hơn 1 mẫu/vụ thu lợi nhuận hơn 50 triệu đồng/vụ. Bà Nguyễn Hồng Hạnh, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường thị xã Kim Bảng đánh giá: Yếu tố chính thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên đồng ruộng của thị xã là tổ chức tốt hoạt động của các HTXDVNN. Từ đó, thay đổi tư duy, cách làm của người dân theo hướng hàng hóa, tập trung. Hiện, bình quân giá trị sản xuất trên diện tích canh tác của thị xã Kim Bảng ước đạt hơn 150 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích đạt trên 200 triệu đồng/ha/năm.
Tiếp tục xác định HTXDVNN đóng vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo Thị ủy, UBND thị xã Kim Bảng yêu cầu các địa phương tổ chức tốt và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXDVNN; chú trọng phát triển các khâu dịch vụ thỏa thuận song song với làm tốt dịch vụ thiết yếu nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên địa bàn theo hướng nâng cao giá trị và thu nhập cho người dân.