Văn chương trên quê hương Trạng Trình
Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa cho ra mắt cuốn 'Nhà văn Việt Nam huyện Vĩnh Bảo' (tháng 6-2025). Cuốn sách dày gần 470 trang, khổ lớn, mở đầu bằng một bài thơ tiêu biểu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có tên gọi: 'Cảm hứng'.
Bài thơ viết theo thể Đường luật có hai câu kết thật chí lý, nói về mối quan hệ hữu cơ giữa dân và nước, nước và dân: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Đắc quốc ưng tri tại đắc dân” có nghĩa là “Xưa nay nước lấy dân làm gốc/ Được nước là nhờ có được dân”.
Đã từ lâu, tôi rất thích bài “Cảnh nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào/ Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao/ Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao/ Rượu đến bóng cây ta hãy uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Tác giả tỏ ra rất biết và hiểu đời, hiểu người, hiểu việc qua chữ “nhàn”. Với người đã già, trước hết là tìm thú vui ở nơi vắng vẻ, yên tĩnh, không đua tranh: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”; đến việc cái ăn và nơi tắm ở đâu, cũng được lựa rất kỹ theo mùa, theo thời tiết trong ngày: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”, “Rượu đến bóng cây ta hãy uống” và cuối cùng là cách hành xử có phần đắc đạo của một bậc trí giả: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Có lẽ hai câu đáng nhớ nhất, hay nhất trong bài thuộc về “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Hai câu thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm cô đọng một nghịch lý thâm trầm của minh triết Việt: “Dại” ở đây là sự “dại khôn”, từ chối bon chen để giữ mình trong sạch; “khôn” là sự “khôn dại”, là cái khôn thế tục, lăn vào danh lợi mà hao tổn tâm can. “Ta tìm nơi vắng vẻ” là chọn sự an tĩnh để thấy rõ mình và đời. “Người tìm chốn lao xao” là chạy theo ồn ã, tranh giành được - mất - hơn - thua. Vậy, hai câu thơ không chỉ phân định hai đời sống, mà còn gợi ý một thước đo khôn - dại: Kẻ biết lùi một bước để giữ đạo sống mới là kẻ “khôn” thật sự.
Cuốn sách được làm rất công phu, tập trung giới thiệu tác giả và tác phẩm chọn lọc của Khái Hưng (nhà văn, một trong hai người sáng lập ra “Tự lực văn đoàn”), Trần Tiêu (nhà văn, thành viên “Tự lực văn đoàn”), Trần Bảng (đạo diễn, soạn giả, nhà nghiên cứu chèo, hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam) cùng 17 nhà văn hiện là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong đó, đặc biệt có Trần Bảng (Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật), Thi Hoàng, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Thụy Kha cùng được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Ngoài nhà văn Trung Trung Đỉnh thành công trong lĩnh vực văn xuôi với tiểu thuyết “Lạc rừng” (Giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn 1998 - 2000), “Lính trận” (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2000, Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2000), tôi còn đặc biệt ấn tượng với nhà thơ Thi Hoàng. Thi Hoàng đã xuất bản hàng chục tập thơ và trường ca, thành danh từ thời chống Mỹ. Trước khi đoạt Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, ông từng đoạt nhiều giải thưởng khác, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1996. Ông nổi tiếng với hai bài thơ: “Những đứa trẻ chơi trước cổng đền” và “Ở giữa cây và nền trời”. Trong “Những đứa trẻ chơi trước cổng đền”, ông phát hiện ra: “Chợt ngẫm thấy trẻ em là giỏi nhất/ Làm được buổi chiều rất giống ban mai”. Trong “Ở giữa cây và khoảng trời”, ông có hai câu thơ mà lúc sinh thời, Phạm Tiến Duật coi là hạng nhất: “Trời thì xanh như rút ruột mà xanh/ Cây thì biếc như vặn mình mà biếc”. Ông cũng là người có quan niệm rất khác người về thi ca: “Văn chương nói chung và thơ nói riêng phải quyến rũ người đọc chứ không nên đuổi bắt độc giả. Tôi ủng hộ việc cách tân thơ nhưng cách tân không có nghĩa chỉ đơn giản là bẻ gẫy câu thơ, phá bỏ cấu trúc, ngữ pháp, khoa trương ngôn từ... Làm như thế, thơ chỉ là một đống xác chữ chứ không tạo ra những câu thơ làm rưng rưng người đọc và cũng không thể tạo ra những câu thơ vui buồn khi cần người đọc có thể mang ra ngẫm ngợi hoặc chia sẻ”.
Điều đáng ngạc nhiên là không ngờ vùng đất Vĩnh Bảo (thuộc huyện Vĩnh Bảo cũ, nay là các xã Vĩnh Bảo, xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, xã Vĩnh Am, xã Vĩnh Hải, xã Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Thịnh và xã Vĩnh Thuận, thành phố Hải Phòng) chỉ có xấp xỉ 19 vạn dân mà có đến nhiều nhà văn, nhà thơ như thế! Ngày xưa các cụ nói “văn chương nết đất”, quả không sai!
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/van-chuong-tren-que-huong-trang-trinh-726784.html











