Vận hội mới của ngành Giáo dục (Bài 4): Hội nhập giáo dục – nhịp cầu đưa văn hóa Việt vươn xa
Ý nghĩa lớn lao mà Nghị quyết 71-NQ/TW hướng tới, đó là coi giáo dục như một nhịp cầu nối Việt Nam với thế giới, bằng cả tri thức và văn hóa.

ĐBQH. Bùi Hoài Sơn cho rằng, giáo dục trở thành “sứ giả văn hóa” nếu được đầu tư đúng mức. (Nguồn: Quốc hội)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giáo dục không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn là lĩnh vực hội nhập sâu rộng bậc nhất. Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đưa giáo dục Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, tham gia mạng lưới giáo dục toàn cầu, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và khẳng định vị thế đất nước. Quan trọng hơn, hội nhập giáo dục còn mở ra con đường để văn hóa Việt Nam giao thoa, học hỏi và lan tỏa, đúng như tinh thần Hồ Chí Minh: “Văn hóa phải vừa dân tộc, vừa khoa học, vừa đại chúng”.
Giáo dục – trụ cột của hội nhập quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hóa, giáo dục ngày càng trở thành một trong những lĩnh vực hội nhập sâu rộng nhất, từ trao đổi sinh viên, công nhận văn bằng đến hợp tác nghiên cứu và chuyển giao tri thức. Với Việt Nam, đây không chỉ là nhu cầu khách quan, mà còn là một chiến lược phát triển lâu dài. Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị nhấn mạnh: Đưa giáo dục Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào mạng lưới tri thức toàn cầu chính là con đường để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó tạo nền tảng cho một quốc gia hùng cường trong thế kỷ XXI.
Liên hệ với bối cảnh đất nước hiện nay, khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ, sắp xếp lại địa giới hành chính, tinh gọn bộ máy chỉ còn 34 tỉnh, thành từ ngày 1/7/2025, yêu cầu hội nhập quốc tế về giáo dục càng trở nên bức thiết. Một “giang sơn gọn hơn, mạnh hơn” sẽ chỉ thực sự phát huy sức mạnh khi được nâng đỡ bởi nguồn nhân lực có tầm nhìn toàn cầu, có khả năng giao tiếp và hợp tác quốc tế. Chính vì thế, hội nhập giáo dục không chỉ là nâng cao chất lượng đào tạo, mà còn là bài toán văn hóa và bản lĩnh dân tộc, àm sao để mỗi công dân vừa có đủ tri thức để cạnh tranh trong môi trường toàn cầu, vừa giữ được bản sắc Việt Nam trong dòng chảy hội nhập.
Có thể nói, giáo dục chính là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa hội nhập quốc tế một cách bền vững. Khi học sinh, sinh viên Việt Nam bước vào giảng đường thế giới, họ không chỉ mang theo tri thức mà còn mang theo cả bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngược lại, khi sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam, đó cũng là lúc văn hóa Việt Nam có cơ hội được lan tỏa, thấu hiểu và đồng cảm hơn. Đây chính là ý nghĩa lớn lao mà Nghị quyết 71 hướng tới: Giáo dục như một nhịp cầu nối Việt Nam với thế giới, bằng cả tri thức và văn hóa.
Trở thành “sứ giả văn hóa”
Hội nhập giáo dục không chỉ là một chiến lược phát triển nguồn nhân lực – đó còn là cách để văn hóa Việt Nam được mang ra thế giới và đồng thời tiếp nhận cái hay của nhân loại. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2023-2024, có khoảng 22.000 sinh viên quốc tế đang học tập tại các trường đại học của Việt Nam. Trong số này, gần 4.000 sinh viên theo diện Hiệp định, phần còn lại là du học sinh tự túc hoặc theo các chương trình liên kết song phương. Các quốc gia như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore là những nguồn gửi sinh viên nước ngoài đến Việt Nam nhiều nhất.
"Khi giáo dục Việt Nam thực sự đạt chuẩn quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 71 không chỉ về chương trình, cơ sở vật chất hay quản trị mà cả về khả năng giao lưu văn hóa, văn hóa dân tộc sẽ được thể hiện và lan tỏa mạnh hơn. Bằng cách đó, Việt Nam không chỉ nhập tri thức, mà còn xuất bản sắc qua từng học sinh quốc tế, từng du học sinh Việt Nam mang về, làm giàu thêm dòng chảy văn hóa toàn cầu".
Ngược lại, số lượng du học sinh Việt Nam ra nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Theo thống kê, hơn 230.000 người Việt Nam đang du học toàn cầu tính đến năm 2023. Chỉ riêng tại Mỹ, năm học 2023-2024 có tới 22.066 sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học, cao đẳng ở đó, đưa Việt Nam vào tốp các quốc gia có số lượng du học sinh lớn tại Mỹ. Những con số này không chỉ là dữ liệu học tập mà là những dấu chân văn hóa: Xuất khẩu tri thức, nhập khẩu trải nghiệm và giao lưu bản sắc.
Mỗi sinh viên quốc tế tới học tại Việt Nam là một cầu nối văn hóa, từ việc học tiếng Việt, tìm hiểu lịch sử – văn hóa dân tộc, đến trải nghiệm đời sống xã hội địa phương. Trong khi đó, du học sinh Việt Nam khi sang nước ngoài không chỉ tiếp thu tri thức mà họ mang theo hình ảnh đất nước – lễ nghi, tinh thần hiếu học, phong cách ứng xử vào môi trường quốc tế. Việc các trường đại học Việt Nam mở chương trình song bằng, đào tạo bằng tiếng Anh, liên kết với các trường nước ngoài chính là bước đi cụ thể để giáo dục trở thành sứ giả của giao lưu văn hóa.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm. Số sinh viên quốc tế học tại Việt Nam dù đã tăng lên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng đất nước. Theo khảo sát từ hơn 120 trường đại học, số sinh viên quốc tế học dài hạn trong năm học 2023-2024 chỉ khoảng 5.300 người, với số học ngắn hạn khoảng hơn 4.000 người. Việc thu hút sinh viên quốc tế dài hạn vẫn gặp khó khăn về cơ chế, chính sách, mức độ quốc tế hóa của các trường chưa đồng đều.
Giáo dục trở thành “sứ giả văn hóa” khi những điều nhỏ nhất được làm tốt: Chương trình đào tạo phải phản ánh bản sắc; sinh viên quốc tế được tiếp đón, hỗ trợ; giảng viên có trình độ quốc tế; học thuật, nghi lễ học đường mang dấu ấn văn hóa. Mỗi buổi giao lưu sinh viên quốc tế, mỗi lớp học tiếng Việt hay văn hóa dân tộc không chỉ là trao đổi kiến thức, mà là trao đổi cảm xúc, hiểu biết, hình thành sự đồng cảm và sự kính trọng lẫn nhau.
Khi giáo dục Việt Nam thực sự đạt chuẩn quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 71 không chỉ về chương trình, cơ sở vật chất hay quản trị mà cả về khả năng giao lưu văn hóa, văn hóa dân tộc sẽ được thể hiện và lan tỏa mạnh hơn. Bằng cách đó, Việt Nam không chỉ nhập tri thức, mà còn xuất bản sắc qua từng học sinh quốc tế, từng du học sinh Việt Nam mang về, làm giàu thêm dòng chảy văn hóa toàn cầu.
"Nghị quyết 71 khẳng định quyết tâm đưa giáo dục Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào mạng lưới tri thức toàn cầu. Đây không chỉ là chiến lược phát triển nguồn nhân lực, mà còn là tầm nhìn văn hóa: Biến giáo dục thành cánh cửa để dân tộc ta hội nhập với nhân loại, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc riêng".
Những năm gần đây, hội nhập giáo dục của Việt Nam đã ghi nhận nhiều bước tiến đáng kể. Số lượng chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học quốc tế ngày càng tăng, trải rộng ở nhiều lĩnh vực từ khoa học – công nghệ, kinh tế, y dược đến nghệ thuật và ngôn ngữ. Ngày càng có nhiều trường đại học Việt Nam xuất hiện trong các bảng xếp hạng uy tín khu vực và quốc tế, phản ánh nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Đây không chỉ là sự khẳng định về trình độ chuyên môn, mà còn là dấu hiệu cho thấy giáo dục Việt Nam đang tìm được chỗ đứng trong mạng lưới tri thức toàn cầu.
Ở tầm đối ngoại, hàng loạt hiệp định song phương và đa phương trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo được ký kết với các quốc gia và tổ chức quốc tế đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc trao đổi sinh viên, công nhận bằng cấp và hợp tác nghiên cứu. Việt Nam cũng tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế về giáo dục, từ UNESCO đến ASEAN và APEC, qua đó không chỉ tiếp thu kinh nghiệm quốc tế mà còn góp phần đóng góp sáng kiến, xây dựng vị thế trong cộng đồng toàn cầu.
Cơ hội cũng đến từ việc Việt Nam dần trở thành điểm đến học tập của sinh viên quốc tế. Nhiều trường đại học đã mở ngành giảng dạy bằng tiếng Anh, thu hút ngày càng nhiều sinh viên từ Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Nhật Bản và thậm chí cả châu Âu. Điều này không chỉ góp phần quốc tế hóa môi trường giáo dục trong nước, mà còn biến giảng đường Việt Nam thành không gian văn hóa đa dạng, nơi văn hóa Việt Nam có cơ hội được bạn bè quốc tế cảm nhận và lan tỏa.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, sắp xếp lại đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy, thì việc hội nhập giáo dục lại càng quan trọng. Nó mở ra những kênh giao lưu văn hóa và hợp tác quốc tế, góp phần tạo ra nguồn lực chất lượng cao để phục vụ công cuộc hiện đại hóa đất nước, đồng thời nâng tầm vị thế Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới.

Giáo dục Việt Nam đã có những dấu ấn tự hào trong những năm vừa qua. (Ảnh minh họa: Nguyệt Anh)
Cơ hội lớn nhưng cũng đầy thách thức
Bên cạnh những thành tựu và cơ hội rộng mở, hội nhập giáo dục cũng đặt ra không ít thách thức cho Việt Nam. Khoảng cách chất lượng giữa các cơ sở đào tạo vẫn còn lớn. Trong khi một số trường đã đạt chuẩn quốc tế, tham gia các bảng xếp hạng uy tín, thì nhiều cơ sở giáo dục khác vẫn loay hoay với bài toán chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và phương pháp quản trị. Sự chênh lệch này nếu không được khắc phục sẽ tạo ra khoảng trống lớn trong quá trình hội nhập, khiến việc đạt mục tiêu chuẩn hóa quốc tế trở nên khó khăn.
Một vấn đề khác là năng lực ngoại ngữ và kỹ năng số của học sinh, sinh viên Việt Nam chưa đồng đều. Trong môi trường toàn cầu, ngoại ngữ và công nghệ là “chìa khóa” để mở cánh cửa hội nhập, nhưng nhiều bạn trẻ vẫn gặp trở ngại trong việc giao tiếp, nghiên cứu và hợp tác quốc tế. Nếu không có chiến lược đầu tư bài bản, chúng ta khó có thể biến thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng cao như kỳ vọng.
"Hội nhập giáo dục không chỉ là câu chuyện của những bảng xếp hạng, những hiệp định hợp tác hay chương trình liên kết đào tạo. Ở tầm sâu xa hơn, đó chính là một nhịp cầu văn hóa – nơi tri thức gắn kết các dân tộc, nơi con người hiểu nhau hơn qua việc học, nơi văn hóa Việt Nam được giới thiệu, lan tỏa ra bạn bè quốc tế bằng con đường bền vững nhất: Con đường tri thức".
“Chảy máu chất xám” cũng là một nguy cơ hiện hữu. Khi nhiều sinh viên, trí thức xuất sắc ra nước ngoài học tập nhưng chưa có cơ chế đủ hấp dẫn để quay trở về, đất nước sẽ mất đi một phần nguồn lực quý báu. Để hạn chế tình trạng này, cần có chính sách đồng bộ, từ đãi ngộ nhân tài, tạo môi trường nghiên cứu thuận lợi, đến xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong nước, để người trẻ thấy được cơ hội phát triển lâu dài ngay tại quê hương mình.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, nguy cơ “hòa tan văn hóa” cũng không thể xem nhẹ. Khi mở rộng hợp tác quốc tế, nếu chỉ chạy theo chuẩn mực bên ngoài mà không giữ được gốc văn hóa dân tộc, giáo dục dễ mất đi bản sắc. Đây là thách thức lớn, bởi hội nhập chỉ thực sự bền vững khi chúng ta vừa tiếp thu tinh hoa thế giới, vừa khẳng định được giá trị riêng của mình. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, văn hóa phải “vừa dân tộc, vừa khoa học, vừa đại chúng”, nghĩa là vừa mở rộng để hội nhập, vừa kiên định để giữ bản sắc.
Hội nhập giáo dục vì thế là một hành trình vừa nhiều cơ hội, vừa không ít thử thách. Để đi đúng hướng, cần sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự đổi mới sáng tạo của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là bản lĩnh của mỗi học sinh, sinh viên Việt Nam – những chủ thể trực tiếp của tiến trình này.
Nhịp cầu văn hóa nối Việt Nam với thế giới
Hội nhập giáo dục, xét đến cùng, không chỉ là câu chuyện của những bảng xếp hạng, những hiệp định hợp tác hay chương trình liên kết đào tạo. Ở tầm sâu xa hơn, đó chính là một nhịp cầu văn hóa – nơi tri thức gắn kết các dân tộc, nơi con người hiểu nhau hơn qua việc học, nơi văn hóa Việt Nam được giới thiệu, lan tỏa ra bạn bè quốc tế bằng con đường bền vững nhất: Con đường tri thức.
Nghị quyết 71 khẳng định quyết tâm đưa giáo dục Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào mạng lưới tri thức toàn cầu. Đây không chỉ là chiến lược phát triển nguồn nhân lực, mà còn là tầm nhìn văn hóa: Biến giáo dục thành cánh cửa để dân tộc ta hội nhập với nhân loại, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc riêng. Một thế hệ công dân toàn cầu mang trong mình bản lĩnh Việt Nam chính là hình ảnh cụ thể nhất của hội nhập giáo dục.
Khi một sinh viên Việt Nam bước vào giảng đường ở châu Âu, châu Mỹ, hay khi một học giả quốc tế đến Việt Nam nghiên cứu về văn hóa, lịch sử dân tộc ta không chỉ là hành trình học thuật. Đó là cuộc gặp gỡ văn hóa, là sự đối thoại giữa những giá trị khác nhau để làm giàu thêm cho nhân loại. Chính nhờ giáo dục, cuộc đối thoại ấy trở nên tự nhiên, lâu bền và không ngừng mở rộng.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, văn hóa của một quốc gia chỉ thực sự bền vững khi nó có khả năng đối thoại, chia sẻ và lan tỏa. Hội nhập giáo dục chính là con đường để Việt Nam khẳng định vị thế, để bản sắc Việt Nam được thấu hiểu, để tinh thần hiếu học, nhân ái và sáng tạo của người Việt góp phần vào bức tranh đa sắc màu của nhân loại. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải vừa dân tộc, vừa khoa học, vừa đại chúng và hội nhập giáo dục hôm nay đang hiện thực hóa tinh thần ấy một cách sinh động.
Với tầm nhìn của Nghị quyết 71, với quyết tâm của cả hệ thống và sự nỗ lực của mỗi người dân, chúng ta có cơ sở để tin rằng: Giáo dục sẽ không chỉ là nơi tiếp thu tri thức, mà còn là nhịp cầu đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời mở rộng vòng tay đón nhận tinh hoa nhân loại, góp phần xây dựng một tương lai chung hòa bình, hợp tác và phát triển.