Miễn phí sách giáo khoa bảo đảm quyền học tập bình đẳng
Điểm nhấn giàu tính nhân văn trong Nghị quyết số 71-NQ/TW là mục tiêu đến năm 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh.

Chủ trương về sách giáo khoa thống nhất và miễn phí từ năm 2030 là điểm nhấn thể hiện tính nhân văn, công bằng. Ảnh: Thiệu Vũ
Đây không chỉ là sự hỗ trợ vật chất, mà còn là cam kết của Nhà nước về quyền học tập bình đẳng, bảo đảm không để học sinh nào bị bỏ lại phía sau vì điều kiện kinh tế.
Giáo viên, phụ huynh mong chờ bộ sách giáo khoa miễn phí
Trong thực tế, nhiều địa phương đã thí điểm tủ sách dùng chung, hoặc cấp sách giáo khoa miễn phí cho học sinh nghèo, vùng khó. Tuy nhiên, để mở rộng trên phạm vi toàn quốc, cần sớm hình thành cơ chế tài chính bền vững, tính toán sự phối hợp giữa ngân sách Trung ương, địa phương và nguồn lực xã hội hóa. Song song với đó, việc số hóa sách giáo khoa, xây dựng kho học liệu điện tử dùng chung cũng là giải pháp góp phần giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận cho học sinh.
Tại Trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm (phường Đông Hòa, TPHCM), nhiều giáo viên, phụ huynh đồng tình rằng, chủ trương cung cấp miễn phí sách giáo khoa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện quyết tâm hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, biến khẩu hiệu thành hành động cụ thể vì sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này góp phần củng cố niềm tin của người dân, khơi dậy tinh thần đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Trên thực tế, tình trạng trẻ em phải bỏ học do hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng mua sách giáo khoa còn xảy ra. Do đó, cung cấp sách miễn phí là một bước đi căn bản nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cơ hội tiếp cận tri thức cho mọi trẻ em, bất kể hoàn cảnh gia đình.
Năm học 2025 - 2026, Sơn La có 609 cơ sở giáo dục từ mầm non đến THPT, với gần 380.000 học sinh. Mỗi năm, phụ huynh đều phải chi nhiều khoản cho sách giáo khoa và dụng cụ học tập. Ông Mùi Văn Khoa (xã Tà Hộc) bày tỏ, đối với người dân vùng cao đặc biệt khó khăn, thu nhập thấp, việc mua sách giáo khoa và các khoản đóng góp khác thực sự là gánh nặng.
Tại Tuyên Quang, địa phương miền núi với nhiều xã vùng khó khăn, chủ trương miễn phí sách giáo khoa càng có ý nghĩa đặc biệt. Chị Nguyễn Thị Hạnh, 42 tuổi, xã Bạch Xa chia sẻ: “Gia đình thu nhập thấp, mỗi mùa khai giảng lo nhất là tiền sách. Nếu Nhà nước cấp miễn phí, gánh nặng sẽ giảm đi rất nhiều. Con cái có đầy đủ sách vở thì bố mẹ yên tâm hơn”.

Học sinh Trường Tiểu học Trần Nhân Tông (Đông A, Ninh Bình) trong buổi ngoại khóa - đọc sách ngoài trời. Ảnh: Vân Anh
Em Nguyễn Viết Dương, học sinh lớp 8, Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học - Trung học cơ sở Phúc Yên, tâm sự: Chúng em hay phải dùng lại sách cũ, nhiều cuốn rách, mất trang. Nếu được cấp miễn phí, có sách mới đồng bộ để học, chúng em sẽ thấy phấn khởi và tự tin hơn.
Ông Nguyễn Ngọc Dương, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học - Trung học cơ sở Phúc Yên, khẳng định: Chính sách này sẽ tạo nên những tác động tích cực lâu dài. Đó là giảm gánh nặng tài chính cho hàng triệu hộ gia đình; bảo đảm mọi học sinh đều có cơ hội tiếp cận tri thức bình đẳng; thúc đẩy phong trào học tập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia…
Có thể nói, Nghị quyết số 71-NQ/TW đã mở ra một hướng đi mới cho giáo dục Việt Nam, trong đó, chủ trương miễn phí sách giáo khoa là điểm nhấn thể hiện tính nhân văn, công bằng. Chính sách này không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với thế hệ tương lai của đất nước, mà còn đáp ứng đúng nguyện vọng của đông đảo nhân dân, đặc biệt các gia đình hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các gia đình ở vùng sâu, xa.
Đối với họ, khoản chi cho sách giáo khoa hàng năm là một gánh nặng không nhỏ. Đây là bước đi tiếp nối, đồng bộ với chính sách miễn học phí đã được thực hiện ở bậc phổ thông, hướng tới mục tiêu không để trẻ em nào ở độ tuổi đến trường bị bỏ lại phía sau vì những rào cản vật chất.
Niềm tin lớn nhất mà Nghị quyết mang lại là: Từ thành thị đến nông thôn, đồng bằng tới miền núi, học sinh Việt Nam đều có quyền thụ hưởng một nền giáo dục công bằng, hiện đại và nhân văn. Đây sẽ là nền tảng vững chắc để đất nước phát triển bền vững trong thời kỳ mới.
Tại Tuyên Quang, niềm tin ấy càng rõ rệt khi học sinh, phụ huynh mong chờ một ngày không còn nỗi lo thiếu sách, vở. Với sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, địa phương và toàn xã hội, mục tiêu này hoàn toàn có thể trở thành hiện thực, tạo nền tảng vững chắc để thế hệ trẻ vươn tới ước mơ, góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững.

Việc tồn tại nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau đã tạo nên sự đa dạng trong lựa chọn, song cũng kéo theo không ít bất cập. Ảnh: Thiệu Vũ
Vấn đề then chốt trong biên soạn, triển khai bộ sách dùng chung
Cùng mục tiêu năm 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh, Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng đưa yêu cầu bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc.
Bà Nguyễn Thị Việt Nga - Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, lưu ý một số vấn đề then chốt để biên soạn và triển khai bộ sách giáo khoa dùng chung đạt hiệu quả.
Trước hết, Bộ GD&ĐT cần rà soát lại toàn bộ chuẩn kiến thức trong chương trình để bảo đảm nội dung phù hợp, tránh tình trạng quá tải.
Thứ hai, đội ngũ biên soạn phải có sự kết hợp hài hòa giữa các chuyên gia, nhà khoa học có uy tín, chuyên môn cao với giáo viên trực tiếp giảng dạy giàu kinh nghiệm, nhằm tạo ra những bộ sách gần gũi, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi và khả năng tiếp thu của học sinh.
Thứ ba, xử lý các bộ sách giáo khoa đã có cần được giải quyết hợp lý. Chúng ta ủng hộ chủ trương bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc, nhưng không nên loại bỏ ngay 3 bộ sách giáo khoa phổ thông hiện nay, vì những bộ sách này cũng được biên soạn công phu, thẩm định chặt chẽ, khoa học. Nếu loại bỏ sẽ gây lãng phí.
Vì thế, cùng với một bộ sách giáo khoa chuẩn dùng chung, các nhà trường, giáo viên và học sinh cần coi các bộ sách giáo khoa này là những tài liệu tham khảo bổ ích để góp phần đa dạng hóa kiến thức, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, cần có biện pháp quản lý sát sao, phù hợp để tránh tình trạng lạm dụng sách tham khảo, dễ tạo ra những áp lực không đáng có cho học sinh như thực tế diễn ra trong thời gian qua.
Bà Nguyễn Thị Việt Nga nhấn mạnh, việc sử dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất không có nghĩa quay trở lại lối giáo dục rập khuôn. Để bảo đảm sự linh hoạt, sáng tạo, cần tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá, lấy người học làm trung tâm. Giáo viên vẫn có thể linh hoạt mở rộng, bổ sung kiến thức từ các nguồn tài liệu khác để phù hợp với từng lớp học. Đây là yếu tố cốt lõi để phát huy tối đa sự sáng tạo, tư duy phản biện của học sinh, từng học sinh ở các vùng miền, tránh hình thức cung cấp kiến thức một chiều.
“Cùng với biên soạn sách giáo khoa, cần song song đổi mới chương trình đào tạo tại các trường sư phạm để chuẩn bị một thế hệ giáo viên mới có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới giáo dục, đào tạo”, bà Nguyễn Thị Việt Nga cho hay.
Cùng với nội dung về sách giáo khoa, Nghị quyết số 71-NQ/TW cũng yêu cầu rà soát, đánh giá việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông. Công việc này không chỉ dừng lại ở tổng hợp báo cáo, mà cần sự tham gia đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, từ nhà trường đến giáo viên.
Các chỉ số như tỷ lệ trường học đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất, số lượng giáo viên được bồi dưỡng, mức độ đáp ứng của thiết bị dạy học, hay kết quả học tập của học sinh sẽ là căn cứ quan trọng để xác định hiệu quả triển khai.