VCCI lo ngại quy chuẩn kỹ thuật với thuốc lá điếu gây khó cho doanh nghiệp
Dẫn phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp, VCCI cho biết, một số quy định tại Dự thảo Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thuốc lá điếu do Bộ Y tế soạn thảo sẽ gây ra khó khăn trên nhiều phương diện, không phù hợp với kế hoạch sản xuất năm 2024 và 6 tháng năm 2025 của doanh nghiệp...
Bộ Y tế đang lấy ý kíen góp ý Dự thảo Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) đối với thuốc lá điếu. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, đưa ra một ý kiến góp ý.
Về hiệu lực thi hành, khoản 1 Điều 2 Dự thảo quy định, thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2026. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này hiện không phù hợp với kế hoạch sản xuất của năm 2024 và 6 tháng đầu năm 2025 mà cơ quan quản lý đã phê duyệt cho các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá điếu.
Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá điếu bắt buộc phải dự trữ lượng nguyên liệu tương đương từ 12 - 18 tháng để phục vụ sản xuất. Cụ thể, do đặc điểm nguyên liệu thuốc lá sau khi thu hoạch, chế biến chưa thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngay mà bắt buộc phải qua giai đoạn bảo quản và lên men tự nhiên trong khoảng thời gian từ 10 - 12 tháng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần thời gian ký kết hợp đồng với các đối tác sản xuất thuốc lá nguyên liệu nhằm triển khai sản xuất nguyên liệu có hàm lượng Tar và Nicotin đáp ứng yêu cầu. Đặc biệt, việc vận chuyển, giao hàng các thuốc lá nguyên liệu trên cũng gặp các bất lợi về thời gian, giá vận chuyển do những bất ổn từ tình hình thế giới.
Bộ Y tế đang lấy ý kíen góp ý Dự thảo Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) đối với thuốc lá điếu.
Vì vậy, để bảo đảm phù hợp với thực tế kế hoạch sản xuất thuốc lá điếu năm 2024 và 2025 đã được cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt, bảo đảm nguồn dự trữ về nguyên liệu sản xuất, VCCI đề nghị Ban soạn thảo quy định hiệu lực thi hành của thông tư thành “Thông tư có hiệu lực thi hành sau 18 tháng kể từ ngày ban hành”.
Về lộ trình giảm hàm lượng tối đa Tar và Nicotin trong khói một điếu thuốc, Dự thảo quy định từ ngày 1/1/2026: hàm lượng Tar là 15 mg/khói 1 điếu thuốc lá, hàm lượng Nicotin là 1,3 mg/khói 1 điếu thuốc lá. Từ ngày 1/1/2029, hai tỷ lệ này lần lượt là 14 và 1,2. Sau ngày 1/1/2029, hàm lượng tối đa Tar và Nicotin quy định tại giai đoạn này sẽ được rà soát định kỳ 2 năm và xem xét điều chỉnh trong trường hợp cần thiết để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tác hại của thuốc lá.
Theo phản ánh của các doanh nghiệp, việc áp dụng và tuân thủ lộ trình giảm hàm lượng Tar và Nicotin như trên sẽ gây ra khó khăn trên nhiều phương diện.
Trong đó, về thị hiếu của người tiêu dùng, người tiêu dùng tìm đến và sử dụng thuốc lá để thỏa mãn nhu cầu về Tar và Nicotin. Do đó, khi không tìm thấy sản phẩm sản xuất hợp pháp trong nước đáp ứng nhu cầu trên, người tiêu dùng sẽ có xu hướng tìm kiếm các sản phẩm thay thế bằng các sản phẩm nhập lậu có hàm lượng Tar và Nicotin cao hơn.
Như vậy, lộ trình giảm hàm lượng Tar và Nicotin không phù hợp sẽ khiến thị hiếu thuốc lá của người tiêu dùng thay đổi đột ngột, dẫn đến làm sụt giảm thương hiệu sản phẩm đồng thời gia tăng nguy cơ thuốc lá nhập lậu vào thị trường, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như sức khỏe của người tiêu dùng khi sử dụng các sản phẩm có nhiều rủi ro về nguồn gốc, thành phần, chất lượng.
Về canh tác và sản xuất nguyên liệu đầu vào để sản xuất thuốc lá, nhằm đáp ứng nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc lá chứa hàm lượng Tar và Nicotin thấp hơn, các doanh nghiệp phải nghiên cứu, canh tác và sản xuất giống cây thuốc lá mới. Đây là một quá trình cần nhiều thời gian để cấy trồng giống mới và sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm nguồn nguyên liệu sản xuất, hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 70% sản lượng phục vụ cho quá trình sản xuất. Trong bối cảnh diễn biến thế giới phức tạp đã tạo ra tình thế đứt gãy về nguồn cung, thời gian và chi phí vận chuyển cao, việc bảo đảm nguyên liệu phục vụ sản xuất thuốc lá là nhiệm vụ khó khăn.
Về đầu tư công nghệ, máy móc sản xuất: các doanh nghiệp cho rằng, hiện trình độ máy móc, thiết bị sản xuất thuốc lá điếu tại nhiều doanh nghiệp chưa đáp ứng ngay điều kiện để thực hiện 100% quy định về lộ trình trên.
Do đó, cần thời gian xem xét có lộ trình chuyển đổi phù hợp trước khi áp dụng nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian nghiên cứu, đầu tư, chuẩn bị về mặt công nghệ và nhân lực trong việc triển khai sản xuất và kinh doanh.
Vì những lý do trên, VCCI đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc quy định lại lộ trình theo phương án như sau:
Giai đoạn 1: Thời gian 5 năm kể từ khi Thông tư có hiệu lực thi hành: hàm lượng Tar là 15 mg/khói 1 điếu thuốc lá, hàm lượng Nicotin là 1,3 mg/khói 1 điếu thuốc lá. Giai đoạn 2: Cần theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện giai đoạn 1; xem xét tình hình, bối cảnh sản xuất kinh doanh thuốc lá trong nước để đưa ra mức giảm phù hợp.
Ngoài ra, VCCI đề nghị Ban soạn thảo xem xét hoặc bỏ nội dung: “Sau ngày 1/1/2029, hàm lượng tối đa Tar và Nicotin quy định tại giai đoạn này sẽ được rà soát định kỳ 2 năm và xem xét điều chỉnh trong trường hợp cần thiết để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tác hại của thuốc lá”. Quy định trên có sự chồng chéo và trùng lặp với quy định tại mục VI.2 của Dự thảo.
Liên quan đến hồ sơ hợp quy, để giảm thiểu gánh nặng thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo xem xét giữ nguyên quy định về việc kê khai phụ gia, nguyên liệu thay thế thuốc lá như hiện hành tại QCVN 16-1:2015/BYT. Đồng thời đề nghị Ban soạn thảo dẫn chiếu cụ thể các quy định về phương thức, trình tự, thủ tục công bố hợp quy tại các thông tư đã nêu tại mục IV.2 thay vì chỉ dẫn chiếu số liệu thông tư.