Về trong lá trút - một góc trời riêng của Lê Quý Nghi
'Về trong lá trút', thơ Lê Quý Nghi, do NXB Văn học ấn hành năm 2025 gồm 64 bài thơ và 8 phụ bản tranh khắc gỗ của họa sĩ Huỳnh Lê Nhật Tấn, nội dung chia làm hai phần: Về trong lá trút và Thơ viết cho con gái. Đây là thi phẩm thứ hai của Lê Quý Nghi, được ra mắt từ sau tập thơ đầu tay gần 20 năm.

Bìa tập thơ “Về trong lá trút”.
Thực ra tôi chưa từng gặp gỡ, đọc nhiều về Lê Quý Nghi, mà chỉ biết anh qua một vài thông tin từ các bạn Lý Đợi, Huỳnh Lê Nhật Tấn, Nguyễn Hữu Hồng Minh... Thế nhưng, điều đầu tiên làm tôi chú ý hơn cả khi tình cờ bắt gặp những dòng chữ này từ trang báo nào đó: “Trong một lần uống rượu cùng bạn bè thời sinh viên, anh đã từng tuyên bố bỏ thơ! Để chứng tỏ mình là người có trách nhiệm, anh đã chặt một ngón tay tuyên bố từ bỏ thơ”. Thật kỳ lạ, đây là lần đầu tôi nghe một người tuyên bố bỏ thơ mà chặt ngón tay như vậy. Và cũng không thể tin có ai chặt tay rồi mà sẽ bỏ thơ được! Một con người như vậy chắc hẳn số phận vĩnh viễn thuộc về Thơ, không thể thoát ra chiếc bóng của Thơ.
Thế là cầm thi phẩm “Về trong lá trút” trên tay, tôi như bị một lực hấp dẫn hút vào không cưỡng nổi, mắt dán chặt, không bỏ sót dòng chữ nào: “Mi có nhớ Xà Bang ngày đó/ Nhà Năm Căn lụp xụp dưới bìa rừng/ Có đêm ngủ sạp tre mền chiếu hụt/ Vượn hú sảng hồn khuya lạnh thấu xương/ Ngày đó đứa mô cũng già trước tuổi/ Trỉa bắp vồng khoai khoèo củi giữ em/ Mạ buôn gánh ba đi rừng tối mịch/ Ngước dõi ngoài hiên không dám thắp đèn...” (Xà Bang). Ôi, thơ Lê Quý Nghi sao nghe buồn quá! Một cái buồn hồn nhiên, trơ trụi nhói tận tâm can. Bởi phải chăng vì ngay từ thuở ấu thơ, Nghi đã lớn lên trong hoàn cảnh thua thiệt: “Bảy tám tuổi mình mới vô lớp một/ Trường mới toanh phên lá chái tranh/ Hai ba đứa mượn chung vài cuốn sách/ Áo vá quần đùi tới lớp lênh khênh/ Rồi cũng lớn theo tháng ngày đắp đổi/ Mi nhớ cùng tau cõng đậu chạy vô rừng?/… /Mười tuổi đầu phụ ba mạ kiếm cơm...”, để rồi tận mấy chục năm sau, cái tuổi thơ khổ lụy ấy vẫn còn thao thức với tác giả ngay cả trong giấc mơ: “Chừ nhắc lại ngậm ngùi thêm mi hỉ/ Thời tau mi thời lận đận cơ hàn/ Ai đã đuổi tuổi thơ vào khổ lụy/ Hơn bốn mươi rồi còn nằm mớ Xà Bang” (Xà Bang).
Theo Lynh Bacardi: “Đọc anh, ta sẽ hiểu vì sao anh viết ít, vì anh chỉ viết khi thật sự có ý thơ và cảm xúc. Anh không có nhu cầu viết cho người khác đọc, mà anh viết cho chính mình… và thơ lúc này như tình nhân mặt kề mặt, môi áp môi, họ tỉ tê cho nhau về hạnh phúc và nỗi đau mà chỉ họ mới đủ thân thương lẫn sâu sắc mà thấu hiểu”. Thật vậy, có lẽ ta càng thấm thía về điều đó, khi tương ngộ Lê Quý Nghi qua những thi ảnh này: “Câu thơ ủ mấy lần sương/ Chiều nay ta cất một bương rượu đầy/ Không còn ai để mà say/ Nghiêng ly động bóng mây ngoài viễn phương” (Uống rượu một mình), hoặc: “Không đành thơ bỏ mà đi/ Thương nghìn xác chữ nằm ghì bên nhau/ Còn đây trong vạn cổ sầu/ Câu thơ hứng nốt giọt đau sau cùng” (Với thơ), và: “Tôi nghe từng tiếng thở ra/ Từ ngày hôm trước tràn qua hôm này/ Tôi nghe cả tiếng thở dài/ Của hôm nay vắt qua ngày hôm sau...” (Nghe tiếng thở).
Toàn bộ những bài thơ ở tập “Về trong lá trút”, xen kẽ trong những nỗi buồn thân phận, quê hương, đôi lúc là những tình cảm chân chất, nhẹ nhàng dành cho người mẹ, người vợ, người tình trong ký ức... “Mùa lá cũ/ em ở đâu?/ gió hút/ Đường ba-zan đất dậm mấy năm rồi/ Anh về trượt bóng em/ đêm nghiêng đảo/ Chân bíu bây giờ/ tay vịn xa xôi/ Xanh lại chút/ có vàng thêm không lá?/ Ở đâu em mà nhớ trút trơ cành/ Tự ngún lửa/ chỉ mình anh cùng lá/ Hóa vàng thơ/ nghe mùa cũ tái sinh” (Về trong lá trút). Cái đặc điểm đáng nhớ nhất trong thơ Lê Quý Nghi là không hề có sự cầu kỳ, khiên cưỡng, làm dáng suy tư... Có lẽ vì vậy, thơ anh khiến người đọc dễ dàng rung động, chia sẻ xiết bao: “Bàn tay níu xuống non cao/ Bàn tay vực dậy thung sầu miên man/ Tay em nắn nót phím đàn/ Thức xôn xao lá động ngàn sương mai/ Bàn tay dựng đêm vào ngày/Chữa lành tôi vết thương hoài hủy xưa” (Tay em).
Sau những nỗi muộn phiền u uất phần đầu, ở phần 2 thi tập “Về trong lá trút” (Thơ viết cho con gái), thơ Lê Quý Nghi bất chợt chuyển động, lóe lên những tia sáng ấm áp diệu kỳ! Nếu tất cả những vần thơ viết cho riêng mình, cho nghiệp nợ chính mình là những gì khô khốc, trầy trụa nhất, thì ở phần này tác giả đang kỳ vọng tạo dựng xây nên những giấc mộng trong trẻo êm đềm: “Mỗi lần ba bước hụt chân/ Là con đứng ở rất gần... vói tay/ Một lần... lỡ một lầm hai/ Có con an ủi ba ngoai nguôi lòng/ Có lần ngấp nghé vực không/ Tiếng con cười níu lại vòng tử sinh/ Những lần ngày phủ buồn tênh/Con làm mưa xóa những phiền ưu ba/ Maika, Maika, Maika...” (Đêm ba mơ thấy con). Từ thuở đứa bé tập tễnh bước đi, người cha kề cận theo con từng bước: “Ngày con tập đi chập chững/ Ba theo chân quýu rộn ràng/ Bi bô con vừa tập nói/ Tay ba luýnh quýnh khung đàn” (Viết cho sinh nhật con gái), đến những lúc ở rời xa, ngập tràn nhung nhớ: “Hôm nay đi làm xa/ Mấy ngày rồi không gặp/ Thèm được thấy con nghịch/ Đôi mắt rươm rướm tròn... (Maika), rồi lại có khi cả xa lẫn gần: “Thì Vũng Tàu thôi hoặc xa hơn nữa/ Kể chi, nhiều lúc ở gần nhà/ Khẽ gọi tên con ba quên mệt/ Maika ơi! Ơi Maika!” (Với Maika).
Chỉ với một tập thơ mỏng, “Về trong lá trút” đã khắc họa nên một chân dung Lê Quý Nghi khá rõ nét: Khắc khoải, đớn đau, hạnh phúc... ở một góc trời riêng, cô quạnh. Và mai đây, trên hành trình thiên lý về đến ngàn sau..., dù thế nào đi nữa, tôi tin rằng, tác giả sẽ thôi, không còn vương vấn ý định từ bỏ, cự tuyệt nghiệp nợ Thơ ca.
Trần Trung Sáng
Nhà thơ Lê Quý Nghi sinh năm 1974, quê quán: Quảng Trị, hiện sống tại Biên Hòa (Đồng Nai). Tác phẩm đã xuất bản: Hoa không mùa (NXB Văn hóa Sài Gòn 2008), Về trong lá trút (NXB Văn học 2025).
Nguồn CAĐN: https://cadn.com.vn/ve-trong-la-trut-mot-goc-troi-rieng-cua-le-quy-nghi-post318705.html