Vì sao các gói tín dụng hỗ trợ bị 'tắc'?
Lý giải về việc tín dụng tăng thấp, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan từ cả phía ngân hàng và doanh nghiệp (DN). Tính đến ngày 30/11, tín dụng đối với nền kinh tế đạt khoảng 13 triệu tỷ đồng, tăng 9,15% so với cuối năm 2022, vẫn thấp hơn so với cùng kỳ các năm.
Lý giải về nguyên nhân khách quan, NHNN cho biết chủ yếu đến từ các yếu tố khách quan như đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm, dẫn tới cầu tín dụng của người dân, DN giảm tương ứng. Một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm DN nhỏ và vừa trong khi việc triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa, Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa chưa phát huy hiệu quả. Rồi khó khăn từ thị trường BĐS tác động đến khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm BĐS, trong khi tín dụng BĐS chiếm tỷ trọng khoảng 21% trong tổng tín dụng chung. Chưa kể, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, DN khó chứng minh hiệu quả, tổ chức tín dụng rất khó khăn trong quyết định cho vay.
Đối với một số chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngoài khó khăn chung, còn có những khó khăn đặc thù. Cụ thể, đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội thì do các quy định pháp luật liên quan đến dự án nhà ở xã hội (quỹ đất, trình tự, thủ tục mua bán, định giá…) còn nhiều vướng mắc; số lượng dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư rất ít; mới có 23 UBND tỉnh, thành phố công bố/gửi danh mục các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án xây dựng, cải tạo lại chung cư cho NHNN và Bộ Xây dựng để các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận, thẩm định dự án; một số chủ đầu tư chưa đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định; một số điều kiện đối với người mua nhà không còn phù hợp, nguồn thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng mua nhà bị ảnh hưởng do tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh khó khăn, cầu ở mức thấp.
Đối với Chương trình tín dụng tiêu dùng 20.000 tỷ cho công nhân, người lao động chưa nắm bắt rõ thông tin về gói vay ưu đãi cho công nhân, trong khi các DN, công đoàn cơ sở, công đoàn các khu công nghiệp chưa thật sự chú trọng truyền thông, phổ biến gói vay; tình trạng thất nghiệp, mất việc làm tăng cao ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của người lao động.
Đối với Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% (40.000 tỷ đồng), kết quả còn thấp, chưa như kỳ vọng là chủ yếu do khách hàng không đáp ứng đối tượng được hỗ trợ lãi suất. Chưa kể, tâm lý e ngại công tác thanh, kiểm tra, cân nhắc giữa lợi ích từ hỗ trợ lãi suất 2% và chi phí bỏ ra khi nhận hỗ trợ lãi suất như theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phía ngân hàng, khó đánh giá về khả năng “phục hồi” theo Nghị quyết 43/2022/QH15 trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều yếu tố rủi ro, bất định. Còn phía khách hàng, một số lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ nên không thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất...
Còn một số chương trình tín dụng ưu đãi khác, nguồn hỗ trợ đối với các chương trình này là từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là hạn chế và trong giai đoạn 2021-2025, ngân sách nhà nước không bố trí kế hoạch vốn đầu tư công để cấp bù lãi suất cho các ngân hàng thương mại đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng. Ngoài ra, còn một số vướng mắc qua công tác thanh tra, giám sát như khách hàng vay có tình hình tài chính kém lành mạnh, sử dụng vốn vay sai mục đích, đầu tư, kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến không trả được nợ vay; khả năng huy động vốn trung, dài hạn của các tổ chức tín dụng còn thấp so với nhu cầu của nền kinh tế; nợ xấu có xu hướng tăng làm hạn chế khả năng cấp tín dụng...
Tuy nhiên, NHNN cũng thừa nhận, sở dĩ tín dụng tăng thấp, một phần nguyên ngân quan trọng là do lãi suất cho vay ở một số ngân hàng thương mại còn ở mức khá cao. Một số ngân hàng thiếu mạnh dạn cấp tín dụng, còn thận trọng, lo sợ nợ xấu tăng. Việc thực hiện cơ chế tài sản đảm bảo còn thiếu linh hoạt, chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp. Thiếu sự kết nối của khách hàng và ngân hàng để trực tiếp trao đổi, tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn... “Thời gian tới, đề nghị các ngân hàng tiếp tục tiết giảm chi phí để có thể tiếp tục giảm lãi suất. NHNN sẽ nghiên cứu việc công bố lãi suất cho vay bình quân của các tổ chức tín dụng để khách hàng lựa chọn ngân hàng có lãi suất thấp để tiếp cận vay vốn”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng thông tin.
Nguồn CAND: https://cand.com.vn/kinh-te/vi-sao-cac-goi-tin-dung-ho-tro-bi-tac--i716558/