Vì sao chưa thể cải thiện chất lượng không khí khi quy định có từ lâu?

Khó khăn trong kiểm soát nguồn phát sinh chất thải; việc đầu tư cho các giải pháp kiểm soát chất lượng không khí, bao gồm cả hạ tầng giao thông, còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ... dẫn đến khó cải thiện chất lượng không khí.

Mới chỉ có 20 địa phương thực hiện ban hành kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí

Liên quan đến công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các đô thị lớn, ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại các đô thị lớn nói riêng và trên phạm vi toàn quốc nói chung đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Trước đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2021–2025. Căn cứ theo quy định, các địa phương cũng cần xây dựng và ban hành kế hoạch cấp tỉnh.

"Tuy nhiên, đến nay, trong số 63 tỉnh, thành, mới chỉ có 20 tỉnh thực hiện điều này. Về triển khai, vẫn còn không ít vướng mắc, trước hết là khó khăn trong kiểm soát nguồn phát sinh chất thải. Dù đã xác định được các nhóm nguồn chính như giao thông, công nghiệp, xây dựng, đốt phụ phẩm nông nghiệp, sinh hoạt dân cư…, song việc kiểm soát các nguồn phát thải này vẫn còn nhiều bất cập, thiếu sự đồng bộ. Đặc biệt, khu vực phía Bắc còn chịu ảnh hưởng rõ rệt từ các yếu tố khí hậu, thời tiết", Cục trưởng Cục Môi trường chia sẻ.

Theo ông Hoàng Văn Thức, việc đầu tư cho các giải pháp kiểm soát chất lượng không khí, bao gồm cả hạ tầng giao thông, còn hạn chế. Dù chiến lược phát triển giao thông xanh đã được phê duyệt, nhưng quá trình thực hiện lại gặp khó khăn do thiếu hụt nguồn lực. Việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng hay sử dụng công nghệ lạc hậu ra khỏi nội đô cũng đòi hỏi lộ trình và kinh phí lớn, bao gồm cả hỗ trợ từ ngân sách trung ương.

Tiếp nữa là những năm qua, Nhà nước đã đầu tư và Bộ đã tham mưu triển khai một số trạm quan trắc không khí tự động. Hiện cả nước có khoảng 27 trạm đang vận hành, một số do trung ương, một số do địa phương quản lý. Tuy nhiên, chỉ có trung ương mới đảm bảo duy trì số liệu thường xuyên, còn nhiều địa phương vẫn thiếu nguồn lực vận hành liên tục. Theo thông lệ quốc tế, ngoài các trạm cơ bản, cần phải tăng mật độ mạng lưới trạm cảm biến thì mới có thể dự báo chính xác và kịp thời hơn. Đây là việc bắt buộc phải được tăng cường trong thời gian tới.

Sự phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành và địa phương còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ và chưa có thiết chế điều phối hiệu quả. Ý thức của doanh nghiệp và người dân cũng là một yếu tố đáng lo ngại. Dù công tác tuyên truyền, truyền thông đã được chú trọng, nhưng tình trạng doanh nghiệp xả thải vượt chuẩn, người dân xả rác bừa bãi, phương tiện giao thông không đảm bảo kiểm soát khí thải vẫn diễn ra phổ biến. Bộ đang tập trung xây dựng và ban hành các quy chuẩn về khí thải để siết chặt hơn trong thời gian tới.

Đặt mục tiêu đến 2030 sẽ giảm ít nhất 20% bụi mịn PM2.5

Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng: "Trong dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025–2030, chúng tôi đã xác định rõ mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu tổng quát là từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm không khí, đặc biệt tại các đô thị lớn; nâng cao sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, bền vững. Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, nồng độ bụi mịn PM 2.5 sẽ phải giảm ít nhất 20% so với mức trung bình của năm 2024. Theo số liệu quan trắc, năm 2024, nồng độ PM2.5 trung bình tại Hà Nội là khoảng 47 µg/m³. Như vậy, trong 5 năm tới, mục tiêu là đưa con số này xuống còn khoảng 37 µg/m³, và tiếp tục giảm dần để tiệm cận ngưỡng 30 µg/m³ trong các giai đoạn tiếp theo".

Đặt mục tiêu đến năm 2030, nồng độ bụi mịn PM 2.5 sẽ phải giảm ít nhất 20% so với mức trung bình của năm 2024

Đặt mục tiêu đến năm 2030, nồng độ bụi mịn PM 2.5 sẽ phải giảm ít nhất 20% so với mức trung bình của năm 2024

Để đạt được mục tiêu này, theo Cục trưởng Cục Môi trường, cần đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết là kiểm soát khí thải từ phương tiện giao thông đang lưu hành, đặc biệt là ô tô và xe máy. Bộ đang tham mưu Thủ tướng ban hành lộ trình áp dụng quy chuẩn khí thải đối với các phương tiện này. Dự kiến Hà Nội và TP.HCM sẽ bắt đầu triển khai từ ngày 1/1/2027.

Cùng với đó, các đô thị cần rà soát, xây dựng kế hoạch di dời hoặc yêu cầu các cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ lạc hậu phải chuyển đổi công nghệ thân thiện với môi trường. Trường hợp không thể di dời, bắt buộc phải đổi mới công nghệ. Về phát triển giao thông xanh, các địa phương cần đầu tư mạnh vào phương tiện công cộng, xe buýt điện, phương tiện sử dụng năng lượng sạch. Hà Nội và TP.HCM có thể phải cam kết đến năm 2030 cơ bản chấm dứt xe sử dụng xăng dầu, thay thế bằng phương tiện xanh.

"Thực tế cho thấy làn sóng dân cư từ nông thôn tiếp tục đổ về các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM. Sự gia tăng dân số cơ học kéo theo khối lượng chất thải rắn sinh hoạt, nhu cầu về điện, nước, nhiên liệu và phương tiện giao thông, đặc biệt là xe máy đều tăng mạnh. Phần lớn người dân mới đến thành phố đều sử dụng xe máy như phương tiện mưu sinh. Tất cả những yếu tố này đặt ra áp lực rất lớn lên hạ tầng kỹ thuật môi trường đô thị. Vì vậy, chính quyền địa phương cần đầu tư mạnh hơn vào hệ thống thu gom và xử lý chất thải, kiểm soát khí thải, xử lý nước thải… để vừa đảm bảo nhu cầu dân sinh, vừa bảo vệ môi trường bền vững", ông Hoàng Văn Thức nêu ra giải pháp.

Văn Ngân/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/xa-hoi/vi-sao-chua-the-cai-thien-chat-luong-khong-khi-khi-quy-dinh-co-tu-lau-post1213540.vov