Vì sao tỷ lệ chữa khỏi ung thư ở phụ nữ thấp?
Mỗi năm nước ta có thêm gần 75.000 phụ nữ phải gánh chịu căn bệnh ung thư. Các bệnh ung thư mà chị em thường mắc là ung thư đại trực tràng, phổi, dạ dày và gan. Tuy nhiên, loại ung thư phổ biến và liên quan nhiều đến yếu tố giới tính chính là ung thư vú và ung thư phụ khoa.
Cứ mỗi ngày, có 9 phụ nữ Việt Nam tử vong vì ung thư cổ tử cung và các bệnh nhân ngày càng trẻ hóa. Nhiều người nghĩ ung thư là “án tử” nên mắc bệnh đã không điều trị, hoặc chữa bệnh bằng phương pháp phản khoa học, đánh mất “thời gian vàng” điều trị.
Tuân thủ khám sức khỏe định kỳ
Theo GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K, ung thư vú là căn bệnh ung thư phổ biến ở phụ nữ Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới. Ước tính mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 14,1 triệu ca mới mắc ung thư, trong đó riêng bệnh ung thư vú chiếm tới 1,2 triệu ca.
Ở nước ta, mỗi năm trên toàn quốc có khoảng 126.000 ca mới mắc và 94.000 trường hợp tử vong do ung thư, thì riêng ung thư vú chiếm khoảng 15.000 ca mới mắc và trên 6.000 trường hợp tử vong. Chỉ tính riêng ung thư vú và phụ khoa (bao gồm cổ tử cung, tử cung, buồng trứng, âm đạo và âm hộ) đã chiếm tới trên 1/3 (34%) số ca mắc ung thư ở nữ.
Tầm soát ung thư vú và ung thư cổ tử cung bằng khám sức khỏe định kỳ ở những bệnh viện có chuyên khoa ung bướu là việc làm vô cùng cần thiết đối với phụ nữ từ 40 tuổi trở lên. Nhưng hiện có nhiều người vẫn chủ quan, không thăm khám định kỳ, nên khi phát hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn.
Theo GS.TS Trần Văn Thuấn, các chị em có thể không nhận thấy các triệu chứng ung thư, hoặc có thể bỏ qua, cho rằng chúng ít nghiêm trọng. Nhưng khi các triệu chứng dưới đây kéo dài hơn hai tuần, chúng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư vú hoặc phụ khoa và chị em cần đến các cơ sở y tế uy tín để được khám, tư vấn và chẩn đoán: Đau hoặc đỏ vú, tụt núm vú, da vùng vú bị lồi lõm, co kéo bất thường. Chảy dịch vú, thay đổi màu sắc trên da của vú, một bên vú dày chắc hơn bên kia. Có hạch nách hoặc hố thượng đòn. Chu kỳ kinh nguyệt bất thường, thay đổi thói quen tiểu tiện. Xuất huyết hoặc chảy dịch âm đạo bất thường. Đau hoặc chảy máu sau khi quan hệ tình dục, đau vùng xương chậu.
Bên cạnh đó, các chị em nên tự khám vú sau kỳ kinh nguyệt khoảng 5 ngày, là lúc tuyến vú mềm và dễ cảm nhận nhất.
Tỷ lệ tử vong cao vì phát hiện muộn
GS Nguyễn Bá Đức, nguyên Giám đốc Bệnh viện K cho biết, tỷ lệ chữa khỏi ung thư ở Việt Nam thấp do 70% người bệnh phát hiện muộn. Một nguyên nhân khá phổ biến, đó là người dân đôi khi có thói quen, hiểu biết chưa đầy đủ về ung thư, mắc bệnh không tới viện khám và điều trị lại đi “vái tứ phương” như cúng bái, điều trị bằng uống lá cây, rễ cây… Do điều trị bằng phương pháp phản khoa học, nhiều bệnh nhận nặng gần chết mới tới viện.
Điển hình là bệnh nhân T.T.T. (67 tuổi, ở xã Hồng Thái Tây, Đông Triều, Quảng Ninh) vào cấp cứu tại Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí với một bên vú bị hoại tử. Bà T. phát hiện ung thư vú từ năm 2017 nhưng lại không điều trị, tự đắp thuốc tại nhà. Gần đây bà thấy khối u phát triển lớn, lở loét, chảy mủ đục mùi hôi, đau đớn mới được người nhà đưa vào viện cấp cứu.
Trường hợp gần đây nhất, chị N.T.L.T. (Phú Thọ), phát hiện ung thư vú cách đây 3 năm nhưng thay vì đến viện điều trị, chị lại tự mua thuốc nam chữa tại nhà. Khối u không những không nhỏ đi mà to lên nhanh chóng, ngực chị bị sưng đỏ, lở loét, chảy dịch. Tháng 9-2019, chị T. vào cấp cứu tại BV Đa khoa Phú Thọ khi khối u ngực của chị đã vỡ loét, có kèm theo hạch nách.
ThS.BS Trần Xuân Vĩnh, Trung tâm Ung bướu, BV Đa khoa Phú Thọ cho biết, đây là trường hợp hết sức đáng tiếc, bệnh nhân tin theo chữa trị bằng phương pháp dân gian không có cơ sở khoa học rõ ràng. Trong khi đó, với bệnh ung thư vú, nếu phát hiện ở giai đoạn 1-2 điều trị theo đúng phác đồ, khả năng chữa khỏi lên tới 90%, khi bệnh lên giai đoạn 3-4, cơ hội giảm xuống chỉ còn 40%.
Theo Bệnh viện K, hiện tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú ở Việt Nam là 75% nếu được phát hiện sớm. Bệnh viện K cũng đã đưa ra nhiều trường hợp bệnh nhân chiến thắng ung thư để người bệnh tin tưởng vào phương pháp điều trị ung thư khoa học và tiên tiến hiện nay. Điển hình là chị Hoàng Thu Hà (ở Lý Nam Đế, Hoàn Kiếm, Hà Nội) bị ung thư vú từ năm 2011.
Chị đã phẫu thuật cắt khối u vú, trải qua 28 mũi xạ và 8 lần truyền hóa chất, sức khỏe ổn định chị đã được xuất viện. Đến nay, sau 8 năm, chị vẫn mạnh khỏe, các chỉ số xét nghiệm và kết quả khám bệnh định kỳ của chị đều hoàn toàn bình thường. Chị đã trở thành Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phụ nữ Kiên cường - một câu lạc bộ có 700 thành viên là bệnh nhân ung thư vú trên cả nước.
Theo khuyến cáo của GS.TS Trần Văn Thuấn, khi chị em phát hiện ra bệnh cần phải tuân thủ đúng theo phác đồ điều trị của bác sĩ điều trị. Với những chị em có nguy cơ cao (trong gia đình có mẹ hoặc chị, em gái mắc ung thư vú, đột biến gen BRCA1/BRCA2, tuổi có kinh sớm, không sinh con,…), nên đi khám, tầm soát sớm hơn.
Các cơ sở y tế hiện đã ứng dụng các kỹ thuật mới làm cho tầm soát, phát hiện sớm ung thư trở nên dễ dàng và khả thi hơn, như: Chụp nhũ ảnh (Mammography) và MRI cho ung thư vú; phiến đồ âm đạo 'PAP test' và HPV test cho ung thư cổ tử cung, FOB test và nội soi cho ung thư đại trực tràng, chụp CT liều thấp cho ung thư phổi…
Để phòng ngừa ung thư, chị em nên tiêm vaccine phòng virus gây u nhú, ung thư cổ tử cung trong độ tuổi từ 9 - 26 (vaccine phòng nhiễm HPV), vaccine phòng viêm gan B (HBV), tránh xa thuốc lá, hạn chế đồ uống có cồn, tập thể dục thường xuyên và xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý với nhiều rau quả, ngũ cốc, hạn chế đường, tinh bột, đồ chiên, xào, thực phẩm đóng hộp...
Nguồn CAND: http://cand.com.vn/y-te/vi-sao-ty-le-chua-khoi-ung-thu-o-phu-nu-thap-565487/