Vị tướng tình báo không mang quân hàm
Giữa tháng 3/2014, Trại sáng tác văn học về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức tại Đà Lạt bất ngờ được đón một vị khách đặc biệt đến nói chuyện. Ông là nhà tổ chức tình báo huyền thoại Trần Quốc Hương. Khi đó, ông đã 90 tuổi.
Người nhỏ, hao gầy, đầu đội mũ len mỏng, ông đến trại viết bằng xe lăn. Ông không lên bục, các nhà văn dự trại viết kẻ đứng người ngồi vây quanh, háo hức và say mê nghe ông nói chuyện bằng giọng đã không tròn, chậm nhưng vẫn rõ, suốt 2 giờ đồng hồ.
Cuộc đấu trí đỉnh cao
Ông mở đầu: “Chúng ta nên tìm hiểu kỹ về đối phương. Đừng bao giờ đánh giá thấp đối thủ, hãy tôn trọng họ. Biện pháp, cách thức đấu tranh, đấu trí chỉ mở ra khi ta hiểu rõ họ, còn đối phương thì tin ta nói thật, tôn trọng ta”.
Câu chuyện của ông bắt đầu từ tháng 9/1954, khi Bộ Chính trị ra nghị quyết chuyển đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị ở miền Nam, chuẩn bị cho tiến trình thống nhất đất nước thông qua Tổng tuyển cử vào tháng 6/1956, theo tinh thần Hiệp định Geneva. Ông Trần Quốc Hương, lúc đó đang là Phó Giám đốc Nha Tình báo Trung ương được Bộ Chính trị phân công vào cùng với Xứ ủy miền Nam thiết lập, chọn người, huấn luyện, tổ chức và chỉ huy mạng lưới tình báo chiến lược hoạt động đấu tranh để đi đến thống nhất. Trong gần 3 năm, ông đã xây dựng được một mạng lưới tình báo chiến lược hoạt động lâu dài, hiệu quả trên khắp miền Nam, len vào tận những vị trí đầu não của Việt Nam Cộng hòa.
Khác với những gì chúng ta từng biết qua sách báo, đối thủ lớn của ngành tình báo chiến lược Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫy lừng là một cái tên đã hàng chục năm trời bị đánh giá thấp, bị gán cho hầu hết sự tầm thường: Ngô Đình Cẩn. Từ cuối năm 1957, Đoàn công tác đặc biệt miền Trung do Ngô Đình Cẩn lập nên đã phát hiện và đánh phá ác liệt hệ thống hoạt động bí mật của những người Cộng sản ở miền Nam. Từ một liên lạc viên cấp thấp trong đường dây tình báo bị bắt ở Huế, Đoàn công tác đặc biệt đã khui ra... hầu hết mạng lưới tình báo, bắt hơn 140 người, trong đó có nhiều nhà tình báo quan trọng. Ngày 13/6/1958, một điệp viên đầu hàng đã dẫn địch tìm đến tận nơi ở của nhà chỉ huy tình báo, ông Mười Hương bị địch bắt.
Theo lệnh của Ngô Đình Nhu, địch đưa ông về giam lỏng (nhưng canh phòng rất nghiêm ngặt) luân chuyển ở một số nơi trong thành phố Huế, trong đó có địa ngục Chín Hầm. Gần như các hoạt động yêu nước, vai trò của ông từ khi gia nhập Đảng Cộng sản từ năm 1943, địch đều cơ bản nắm hết. Chỉ riêng vai trò nhà tổ chức mạng lưới tình báo ở miền Nam, chúng rất nghi nhưng không đủ bằng chứng. Ông khai tên mình là Nguyễn Hữu Trí, giáo chức, từ Bắc vào Nam hoạt động vận động vì hòa bình, thống nhất đất nước. Khi chúng thẩm vấn, tra tấn nhiều đợt, ông nhận hết tất cả những gì đối phương đã biết: là Đảng viên Cộng sản, hoạt động chống Pháp, được phân vào Nam nhưng chưa nhận vai trò công việc cụ thể thì bị bắt. Trong tất cả các cuộc thẩm vấn, ông luôn nhấn mạnh niềm tin vào ý thức hệ Cộng sản của mình.
Trình độ, khả năng kiến giải, phân tích chính trị của ông quá sắc sảo cho nên phía tình báo và chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị đẩy vào thế lúng túng. Thay vì khai thác để nắm được những bí mật chiến lược từ nhà tình báo đối phương đã bị bắt, họ bị sa vào cuộc tranh luận chính trị mà ông nắm chủ động. Các cuộc thẩm vấn cứ tăng dần cấp độ. Sau 4 tháng, nó được đẩy đến mức cao nhất. Chính Ngô Đình Nhu, Cố vấn chính trị của miền Nam sẽ trực tiếp đối thoại, tranh luận với ông, thay vì thẩm vấn.
Cuộc đối thoại diễn ra tại căn phòng lớn trong nhà nghỉ mát của ông Ngô Đình Cẩn dựng ở cửa biển Thuận An. Khi ông Mười Hương được Lê Khắc Duyệt, Giám đốc Nha Công an miền Trung đưa xe đón, do tài xế tên Dư lái đưa đến nơi, trong phòng đã có cố vấn Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Hà Thúc Luyện, tỉnh trưởng Thừa Thiên, Hồ Đắc Khương, đại biểu Trung phần đợi sẵn.
Điểm tĩnh, khá lạnh lùng, không chờ đối phương hỏi, ông Mười Hương chủ động vào đề ngay. Ông khẳng định: “Tôi ở đây vì tôi là người bị các ông bắt. Vì tôi là Cộng sản, vì tôi là người yêu nước, đối lập ý thức nên các ông coi tôi là người có tội. Nhưng tôi không có tội. Tôi ở đây là để vận động quần chúng đòi thi hành Hiệp định Geneva. Việc này đúng tinh thần đã thỏa thuận, không có gì gọi là gây bất ổn cả. Các ông cũng đã thừa nhận chúng tôi là những người yêu nước, vậy thì bắt tôi vì lý do gì?”.
Ngô Đình Nhu là người uyên bác, thâm trầm; không hề ngắt lời ông Mười Hương. Chỉ khi ông Mười hỏi ngược lại, ông cố vấn chính trị miền Nam mới trả lời, phản bác. Những người khác chỉ dự khán. Ông Nhu bảo: “Nếu thật tâm yêu nước, các anh đã không chống lại chúng tôi. Một người tầm cỡ như anh, chắc không phải chỉ có mặt ở miền Nam chỉ để làm nhiệm vụ tuyên truyền. Cách yêu nước theo con đường Cộng sản của các anh là sai lầm, không thể thành công được”.
Tranh biện đến gần nửa đêm, câu chuyện ngày càng có xu hướng mở đề tài ra quá rộng. Ngô Đình Nhu và bộ sậu không đạt được gì trong mục đích khai thác ý đồ, chủ trương của “Cộng sản Bắc Việt”. Cuối cùng, chính người tù đang bị giam lỏng phải mở lối thoát. Ông Mười Hương nhận xét như kết luận: “Chúng ta đều có những quan niệm, niềm tin khác nhau. Nếu còn tiếp tục tranh luận, chưa phải các ông đã chịu tôi đâu. Các ông cũng chưa có điều gì thuyết phục tôi được cả. Có lẽ chúng ta sẽ còn phải đối thoại nhiều. Hôm nay đã khuya rồi, kéo dài cũng không đi đến đâu”.
Ngầm ý, ông muốn kết thúc câu chuyện, đồng thời tỏ thái độ bình thản đương đầu với thời gian giam cầm có thể sẽ kéo dài không biết đến bao giờ. Ngô Đình Nhu đồng ý, cho xe đưa ông về.
Phản công tư tưởng để tìm tự do
Ngay sau đó, theo lệnh của Ngô Đình Nhu, các cuộc thẩm vấn có tính đe dọa, trấn áp không còn nữa. Thay vào đó, Ngô Đình Nhu đã cho chuyển vào tận nơi giam một số sách báo, kể cả theo yêu cầu, để ông Mười Hương cập nhật tin tức. Đầu tháng 11/1958, đích thân ông Nhu lại đến tận nơi giam thăm, mang cho ông Mười Hương một chiếc radio của Nhật, bảo: “Anh thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, anh tự nghe đi”.
Thời sự quốc tế nóng hổi, kéo dài, được Ngô Đình Nhu đề cập để tranh luận ý thức hệ với đối thủ Cộng sản là sự kiện ngày 4/11/1956, Liên Xô đưa xe tăng và một lực lượng quân sự lớn tiến vào thủ đô Budapest thực hiện “Chiến dịch bão lốc" (Operation Whirlwind) để dẹp tan những kháng cự có vũ trang do Đảng Nông dân nghèo Độc lập mới thành lập, chống lại Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa và chính phủ Hungary thân Liên Xô.
Dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Ivan Konev, 5 sư đoàn Liên Xô được yểm trợ bởi 15 sư đoàn nữa của một số nước trong Khối Hiệp ước Warszawa đã tiến vào Budapest. Giao tranh ác liệt. Quân tấn công không thể phân biệt được rõ đâu là những người nổi dậy vũ trang, đâu là dân thường nên đã gây nhiều thương vong, thiệt hại cho người dân. Trên 2.500 người Hungary và 722 lính Liên Xô đã thiệt mạng, hàng ngàn người khác bị thương. Không chống nổi, sau 1 tuần, ngày 10/11/1956, quân nổi dậy phải hạ vũ khí...
Trong hai năm sau đó, sự kiện này vẫn được Phương Tây mổ đi, xét lại, chiếm một tần suất lớn trên các phương tiện truyền thông. Khi Ngô Đình Nhu quay lại, ông ta bảo: “Các anh tôn thờ Chủ nghĩa Cộng sản, tin tưởng vào Liên Xô. Anh thấy đấy, họ sẵn sàng can thiệp vũ trang, gây thiệt hại cho nhân dân nước đồng minh. Liệu đó có phải là phương cách đáng tin cậy?”.
Rất điềm tĩnh, ông Mười Hương bảo: “Anh nói đúng, nhưng chỉ đúng với trường hợp Liên Xô, không hoàn toàn đúng với Chủ nghĩa Cộng sản, càng không đúng với Việt Nam chúng ta. Chúng tôi đang đấu tranh, chính là để những điều tương tự không có cơ hội xảy ra trên đất nước này. Chúng tôi chống Pháp, và giờ là chống Mỹ. Hẳn là anh cũng không mong một ngày Mỹ sẽ đưa quân vào Việt Nam với danh nghĩa nào đó, kiểu như chống lại những người Cộng sản đang đối lập ý thức hệ với thể chế miền Nam. Đúng chứ? Vậy chúng tôi có gì sai?”.
Ông Nhu im lặng, không nói gì. Sau này, ông Nhu có quay lại thăm vài lần, có cho biết: “Tôi đang cho soạn “Chính đề Việt Nam”. Nhiều ý kiến của anh rất đáng tham khảo, có thể đưa vào “Chính đề”. Nó rất hữu ích cho dân tộc này, đất nước này”.
Từ những cuộc thảo luận trong thời gian bị cầm tù, nhà tình báo Trần Quốc Hương đã có những tác động nhất định lên “bộ não” chính trị của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Nhưng cũng phải mất gần 6 năm, không thêm được điều gì, ông Trần Quốc Hương mới tìm được tự do. Sau đảo chính Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, chính quyền miền Nam có xu hướng nới lỏng sự giam cầm, hành hạ đối với các tù nhân chính trị bị bắt thời đệ nhất Cộng hòa. Nắm được xu hướng xem "kẻ thù của kẻ thù là bạn", lợi dụng tình hình nội bộ chế độ bị phân hóa với những mâu thuẫn sâu sắc, cơ quan tình báo của ta đã tìm cách vận động để ông Mười Hương và 16 cán bộ điệp báo khác được chính quyền Sài Gòn trả tự do.
Người thầy lớn của những nhà tình báo xuất sắc
Trong thời gian ông bị giam cầm, những học trò, cấp dưới trong đường dây tình báo do ông tổ chức và chỉ huy hoạt động đơn tuyến vẫn không bị lộ. Địch không khai thác được bất kỳ thông tin nào từ ông về họ. Những nhà tình báo xuất sắc này vẫn hoạt động hiệu quả. Trong thời gian bị giam lỏng, những cuộc tiếp xúc kín đáo với một học trò là nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ, người từng bị địch bắt giam tại trại giam Tòa Khâm, Huế, ông Mười Hương cũng đã kịp chỉ đạo nhiều kế sách. Được địch thả vào năm 1961 vì không tìm ra chứng cứ kết tội, nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ sau đó đã “chui sâu, leo cao” vào bộ máy chóp bu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, vừa tác động vào quyết sách quốc gia, vừa thu thập chuyển về Trung ương được nhiều nguồn tin tình báo chiến lược rất có giá trị. Cho đến tận khi ông và các cộng sự trong mạng lưới tình báo của ông bị bắt (tháng 7/1969), bị đày ra Côn Đảo, địch vẫn bán tín bán nghi không chắc họ là tình báo Cộng sản hay là nhân vật đáng gờm trong phe đối lập, được CIA Mỹ hậu thuẫn.
Trước khi bị địch bắt, từ năm 1955, ông Trần Quốc Hương cũng đã kịp chỉ đạo, vạch chiến lược để một nhà tình báo xuất sắc khác là Lê Hữu Thúy sớm xâm nhập vào bộ máy chính quyền miền Nam. Ở tuổi 25, ông Lê Hữu Thúy đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm mời làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Nại tuổi đời còn ít, thiếu kinh nghiệm chính trị, ông Thúy từ chối, chỉ nhận hàm Thứ trưởng, hoạt động rất hiệu quả.
Cùng thời điểm, một học trò tình báo do ông Trần Quốc Hương huấn luyện đã phát huy tác dụng, hoạt động ngay từ những ngày đầu đất nước mới bị chia cắt hai miền. Từ một Trung đoàn trưởng kháng chiến “bỏ về thành”, Phạm Ngọc Thảo đã thăng tiến rất nhanh trong màu áo sĩ quan cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Từ một giảng viên Trường Tham mưu, ông Thảo đã được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (1960), có những đóng góp rất quan trọng cho Cách mạng miền Nam.
Chính quyền miền Nam sau đảo chính Ngô Đình Diệm tháng 11/1963 bước vào một giai đoạn cực kỳ rối ren. Các phe nhóm tướng lĩnh liên tục chia rẽ, hạ bệ lẫn nhau để tranh quyền lực và ngày càng dựa vào Mỹ, quyết liệt chống Cộng. Trước tình hình đó, ngày 19/2/1965 Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng Thiếu tướng Lâm Văn Phát (em trai nữ tình báo Lâm Thị Phấn - "Người đẹp Tây Đô"), Đại tá Bùi Dzinh và Trung tá Lê Hoàng Thao đã điều một số đơn vị mà họ nắm cùng 45 xe tăng, thiết giáp làm binh biến. Họ quyết tâm bắt sống Quốc trưởng Nguyễn Khánh, thay đổi nội các, chống nguy cơ chính quyền Việt Nam Cộng hòa đồng ý để Mỹ đổ quân vào tham chiến ở miền Nam, gây đại họa cho nhân dân và phong trào Cách mạng, kéo dài thời gian thống nhất đất nước. Cuộc binh biến bất thành, 20h cùng ngày, ông Thảo tuyên bố chấm dứt. Trên tờ Việt Tiến in bí mật, với bút danh Lê Minh, ông viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20h ngày 19/2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”.
Sau một thời gian bỏ trốn, Phạm Ngọc Thảo đã bị phía quân đội Sài Gòn bắt và thủ tiêu.
Một học trò xuất sắc khác của Trần Quốc Hương là "điệp viên hoàn hảo" Phạm Xuân Ẩn. Từ trước khi bị giam ở Huế, phát hiện những phẩm chất nổi trội của Phạm Xuân Ẩn, ông Trần Quốc Hương đã cùng một lãnh đạo an ninh lão luyện là đồng chí Mai Chí Thọ (Phan Đình Đống) lên kế hoạch đưa ông Ẩn sang Mỹ học báo chí, tạo vỏ bọc sau đó quay về nước hoạt động. Là một nhà tình báo kiệt xuất, nhưng mãi nhiều năm sau giải phóng, đã công khai mang quân hàm thiếu tướng, ông Ẩn mới khiến những người “bạn” trong chế độ cũ ngã ngửa nhận ra là sĩ quan tình báo Cộng sản.
Dù vậy, với ông, họ vẫn luôn là bạn bè chí tình đúng nghĩa, đầy tin cậy. Ngày 29/4/1975, bằng những quan hệ và khả năng của mình, chính ông Ẩn đã giúp trùm mật vụ của nền Đệ nhất Cộng hòa Trần Kim Tuyến và gia đình di tản trót lọt!
Trừ ông Lê Hữu Thúy mang quân hàm Đại tá, Phạm Ngọc Thảo đã hy sinh, những học trò tình báo xuất sắc còn lại của ông Trần Quốc Hương như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn... sau này đều được phong Thiếu tướng. Nhưng riêng ông Trần Quốc Hương chưa từng mang bất kỳ quân hàm nào. Nghề tình báo, dù là bậc thầy, thầy của các thầy, các tướng, với ông cũng chỉ là thiên bẩm. Bản thân ông không hề được đào tạo qua trường lớp hay giáo trình tình báo nào. Cơ duyên bắt đầu từ khi ông gặp ông Trần Hiệu từ năm 1949. Ông Trần Hiệu là một trong 7 “điệp viên” được tình báo Anh huấn luyện từ đảo Madagascar, cho nhảy dù về miền Bắc từ trước Cách mạng tháng Tám, từ đó tham gia Cách mạng, hoạt động suốt đời trong nghề tình báo. Ông Trần Hiệu từng là Cục trưởng Cục Tình báo Quân đội; chính ông đã phát hiện, mời ông Trần Quốc Hương vào “nghề”. Và từ đó, họ đều thành những bậc thầy kiệt xuất.
Vị tướng không mang quân hàm Trần Quốc Hương sau này đã giữ nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước, trở thành Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương. Tên thật của ông là Trần Ngọc Ban, sinh năm 1924 quê huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, tham gia Cách mạng từ năm 1937. Suốt đời ông đã luôn “dĩ công vi thượng”, còn nhiều quãng lặng khác trong đời ông, hàng nhiều pho sách mới có thể tải hết.
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, tặng Huy hiệu 75 tuổi Đảng.
Ngày 11/6/2020, ông tạ thế ở tuổi 96.
Nguồn CAND: https://cand.com.vn/guong-sang/vi-tuong-tinh-bao-khong-mang-quan-ham-i704043/