Việt Nam chủ động hội nhập, khẳng định uy tín và vị thế quốc tế
Trong khuôn khổ Triển lãm '80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc', chiều 4/9, Báo Nhân Dân tổ chức Tọa đàm 'Khát vọng đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế'.

Tọa đàm “Khát vọng đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế” chiều 4/9 do Báo Nhân Dân tổ chức tại Hà Nội.
Tọa đàm khẳng định tầm quan trọng của hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình, niềm tự hào về những thành tựu rực rỡ suốt 95 năm dưới ánh sáng lá cờ Đảng soi đường, từ “cánh chim đổi mới” năm 1986 đến việc Việt Nam gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, trở thành thành viên Liên hợp quốc và nay triển khai Nghị quyết 59-NQ/TW. Đồng thời, tại tọa đàm các diễn giả chia sẻ câu chuyện thực tế về nỗ lực ngoại giao, những bước đột phá mang lại lợi ích lớn lao cho đất nước, trong đó nhấn mạnh vai trò tiên phong của thế hệ trẻ trên hành trình hội nhập.
Tham dự tọa đàm có các diễn giả: Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, thành viên Hội đồng cố vấn chính sách của Thủ tướng; Đại sứ Nguyễn Phú Bình, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc và Nhật Bản; Thượng tướng Võ Văn Tuấn, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tọa đàm thu hút sự quan tâm của đông đảo khách tham quan triển lãm.
Ngoại giao Việt Nam từ “phá vây” đến hội nhập toàn diện
Tại tọa đàm, chia sẻ về những dấu mốc quan trọng của ngành ngoại giao Việt Nam tính từ mốc đổi mới năm 1986 đến nay, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao nhấn mạnh: từ một đất nước từng bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã từng bước phá vây thế cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế và ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Ông cho biết, giai đoạn cuối thập niên 1980 đến đầu những năm 1990 là thời kỳ “phá vây”, khi Việt Nam phải ứng phó với nhiều thách thức quốc tế như vấn đề Campuchia, hậu quả chiến tranh, cùng bối cảnh Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Bằng nỗ lực ngoại giao kiên trì, Việt Nam từng bước tháo gỡ thế bao vây, đạt nhiều thành quả quan trọng như ký Hiệp định Paris về Campuchia (1991), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), gia nhập ASEAN (1995) và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (1995). Đây được coi là bước ngoặt mở ra chặng đường hội nhập sâu rộng của đất nước.
Từ giữa những năm 1990 đến giai đoạn 2010, Việt Nam tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, trở thành thành viên các tổ chức quốc tế quan trọng như APEC, WTO, đồng thời tăng cường hợp tác với các trung tâm kinh tế-chính trị lớn trên thế giới. Đặc biệt, việc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (11/1/2007) đã đưa Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao chia sẻ tại tọa đàm.
Bước sang giai đoạn từ năm 2010 đến nay, hội nhập quốc tế của Việt Nam phát triển ở tầm cao mới, với việc đảm nhiệm nhiều vai trò lãnh đạo quan trọng như Chủ tịch ASEAN (2010, 2020), chủ nhà APEC (2006, 2017), tham gia ngày càng sâu rộng vào các cơ chế Liên hợp quốc. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, quan hệ kinh tế với hơn 230 thị trường và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Việt Nam đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế ngày càng quan trọng trên trường quốc tế, từ dấu mốc phá vây đến hội nhập toàn diện, sâu rộng về kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng và nhiều lĩnh vực khác.
Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao
“Việt Nam đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế ngày càng quan trọng trên trường quốc tế, từ dấu mốc phá vây đến hội nhập toàn diện, sâu rộng về kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng và nhiều lĩnh vực khác”, Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh.
Việt Nam khẳng định vị thế ngày càng quan trọng trên trường quốc tế
Trả lời câu hỏi về vai trò chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng trong thành công trên mặt trận ngoại giao hiện nay, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, phân tích: “Nhìn lại chặng đường hội nhập, có thể thấy mọi thành quả đều bắt nguồn từ những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong bối cảnh đất nước từng bị bao vây, cấm vận, kinh tế khó khăn, chúng ta đã lựa chọn bước đi chiến lược là hội nhập về kinh tế trước, mở đường cho việc tham gia sâu rộng hơn vào các hiệp định thương mại tự do. Từ nền tảng đó, Việt Nam từng bước mở rộng hợp tác sang nhiều lĩnh vực khác như chính trị, ngoại giao, quốc phòng-an ninh, giáo dục, khoa học-công nghệ, tiến tới hội nhập toàn diện và sâu rộng.

Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh: Nhìn lại chặng đường hội nhập, có thể thấy mọi thành quả đều bắt nguồn từ những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ đồng hành, Việt Nam còn tham gia tích cực vào quá trình xây dựng các chuẩn mực, chính sách toàn cầu. Việc đảm nhận những trọng trách tại Liên hợp quốc, APEC hay các chương trình phát triển quốc tế đã trở thành những dấu mốc khẳng định uy tín và vị thế của đất nước.
Ngày nay, hội nhập quốc tế tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, song hành cùng quốc phòng, an ninh. Mục tiêu là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đồng thời nâng cao vị thế quốc gia.
Với kinh nghiệm và thành quả 40 năm đổi mới, chúng ta không chỉ tham gia mà còn chủ động kiến tạo, cùng thế giới xây dựng những cơ chế, khuôn khổ có lợi cho cả Việt Nam và cộng đồng quốc tế, trên cơ sở luật pháp quốc tế và lợi ích đan xen.
Điều đó đòi hỏi ngành ngoại giao phải nâng tầm, phục vụ các mục tiêu phát triển đến năm 2030, 2045; đồng thời đổi mới tư duy trong cách nhìn nhận về đối tác, bạn bè, vấn đề hòa bình, an ninh, cũng như coi hội nhập là động lực then chốt cho phát triển. Không chỉ đồng hành, Việt Nam phải chủ động cùng kiến tạo những giá trị chung, mang lại lợi ích thiết thực cho quốc gia và thế giới.
Sức mạnh tổng hợp từ ba kênh ngoại giao của Việt Nam
Trả lời câu hỏi về ba kênh ngoại giao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, Đại sứ Nguyễn Phú Bình, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao nhấn mạnh: đây là ba trụ cột gắn bó chặt chẽ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, như những cột trụ của một ngôi nhà lớn.

Đại sứ Nguyễn Phú Bình, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao chia sẻ tại tọa đàm.
Theo ông Nguyễn Phú Bình, đối ngoại Đảng có vai trò vạch ra đường lối, chủ trương lớn; ngoại giao Nhà nước là triển khai thực hiện thông qua thiết lập quan hệ, ký kết các hiệp ước, thỏa thuận với đối tác; còn đối ngoại nhân dân có ý nghĩa đặc biệt khi lan tỏa chủ trương, chính sách ấy tới mọi tầng lớp xã hội. “Từ doanh nhân, nhà khoa học đến thanh niên, phụ nữ… đều có thể tham gia thực hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ, tăng cường hội nhập quốc tế trên nền tảng đường lối của Đảng và Nhà nước”, Đại sứ nhấn mạnh.
Ông cho rằng cả ba trụ cột đều quan trọng, song với người dân, đối ngoại nhân dân là kênh trực tiếp, gắn bó mật thiết và cần được phát huy mạnh mẽ nhằm tạo nên thế và lực mới cho đất nước trong tiến trình hội nhập.
Đại sứ Nguyễn Phú Bình cho rằng, hội nhập quốc tế hiện nay không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực đối ngoại mà đã trở thành một khái niệm bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.
Hội nhập quốc tế hiện nay không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực đối ngoại mà đã trở thành một khái niệm bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.
Đại sứ Nguyễn Phú Bình, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao
Ông Bình dẫn chứng, bên cạnh đối ngoại, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương đột phá về phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cải cách pháp luật, phát triển kinh tế tư nhân… Tất cả những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tạo thành sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy hội nhập.
Trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa, Đại sứ nhấn mạnh, lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025) vừa qua là một sự kiện tiêu biểu, không chỉ thu hút sự quan tâm trong nước mà còn tạo ấn tượng mạnh mẽ với bạn bè quốc tế. Cùng với đó, nhiều hoạt động quảng bá văn hóa, du lịch, các lễ hội Việt Nam tổ chức ở nước ngoài cũng góp phần lan tỏa hình ảnh đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Ông cho rằng, “công nghiệp văn hóa” đang trở thành một kênh hiệu quả, khi mỗi chương trình, sự kiện thu hút hàng chục nghìn người tham gia, tạo hiệu ứng lan tỏa rộng rãi.
Theo ông, mỗi hoạt động như vậy đều góp phần nâng cao vị thế, uy tín và sức hấp dẫn của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đánh giá về tầm quan trọng của đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển đất nước, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phú Bình nhấn mạnh: Trong nhiều thập kỷ qua, kiều bào không chỉ đóng góp lớn về lượng kiều hối mỗi năm, mà còn khẳng định vai trò về tri thức, nhất là trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ ở những nước phát triển.
Theo ông Bình, ngày nay, kiều bào ta không chỉ đóng góp bằng tiền, mà quan trọng hơn là chất xám. Đây mới là nguồn lực chiến lược, có ý nghĩa lâu dài cho sự phát triển của đất nước.
"Trước đây, phần lớn trí thức ở nước ngoài xuất thân từ những người rời đi trong bối cảnh lịch sử cũ, nhưng hiện nay, số đông là thế hệ đi học, đi làm từ trong nước, vẫn gắn bó với quê hương. Nhiều người sẵn sàng trở về cống hiến hoặc nếu ở lại nước ngoài thì vẫn cố gắng đóng góp cho đất nước. Đây là xu hướng tích cực mà Việt Nam cần khai thác mạnh mẽ hơn nữa", nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phú Bình chia sẻ.
Ông dẫn lại phát biểu gần đây của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc trong thời gian ngắn cần thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc. Theo ông Bình, điều này hoàn toàn khả thi nhờ hệ thống cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng; đời sống, thu nhập và điều kiện làm việc ở Việt Nam không còn là rào cản lớn. Không chỉ các cơ quan nghiên cứu Nhà nước, mà cả doanh nghiệp tư nhân lớn cũng có khả năng tiếp nhận, tạo điều kiện để trí thức Việt kiều về nước làm việc hoặc đóng góp từ xa.
“Chúng ta có nhiều cải tiến về pháp lý, cơ chế, điều kiện để thu hút nguồn lực này. Đây chính là thời điểm mà đồng bào ta ở nước ngoài cảm thấy phấn khởi, tin tưởng, sẵn sàng đóng góp cho Tổ quốc. Đặc biệt, dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh vừa qua, nhiều kiều bào về dự và bày tỏ sự xúc động, tự hào, khẳng định quyết tâm đồng hành cùng đất nước”, ông Bình nói.
Hội nhập quốc tế nhiệm vụ trọng yếu song hành cùng quốc phòng, an ninh
Trả lời câu hỏi về chủ trương “hội nhập chủ động” và những dấu ấn trong ngoại giao văn hóa, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nhấn mạnh: thành tựu ngoại giao của Việt Nam trong nhiều thập niên qua bắt nguồn từ những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Ông phân tích, ngay từ khi đất nước còn trong tình thế bị bao vây, cấm vận, kinh tế khó khăn, Việt Nam đã xác định bước đi đầu tiên là hội nhập kinh tế. Từ hội nhập kinh tế, Việt Nam từng bước mở rộng ra các lĩnh vực khác như chính trị, an ninh-quốc phòng, giáo dục, khoa học-công nghệ… và tiến tới hợp tác toàn diện, sâu rộng. Không chỉ dừng ở việc đồng hành, Việt Nam còn tích cực tham gia xây dựng các chuẩn mực ứng xử và hoạch định chính sách quốc tế, thể hiện rõ qua việc đảm nhiệm các trọng trách tại Liên hợp quốc, APEC và nhiều cơ chế đa phương quan trọng khác.

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, nhấn mạnh: Hội nhập quốc tế được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, song hành cùng quốc phòng, an ninh.
Theo Đại sứ, ngày nay, hội nhập quốc tế được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, song hành cùng quốc phòng, an ninh. Mục tiêu là vừa tạo môi trường hòa bình, an ninh để bảo vệ Tổ quốc, vừa mở ra điều kiện thuận lợi cho phát triển, đồng thời nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Ông cũng nhấn mạnh: “Sau gần 40 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực mà còn phải vươn lên đóng vai trò kiến tạo, cùng cộng đồng quốc tế xây dựng các khuôn khổ hợp tác vì lợi ích chung, trên cơ sở đan xen lợi ích và luật pháp quốc tế. Điều đó đặt ra yêu cầu ngành ngoại giao phải tiếp tục "nâng tầm", phục vụ các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045, đồng thời chủ động hơn trong việc vừa bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, vừa coi hội nhập quốc tế là một động lực quan trọng của phát triển”.
Đối ngoại quốc phòng góp phần vun đắp hòa bình bền vững
Nhắc về cha mình và những thế hệ đi trước, Thượng tướng Võ Văn Tuấn, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam xúc động cho biết, không chỉ riêng ông, mà cả hai vị khách mời là Đại sứ Nguyễn Phú Bình và Đại sứ Phạm Quang Vinh đều được thừa hưởng từ các bậc tiền bối những phẩm chất quý báu, đó là lòng yêu nước, yêu dân và đặc biệt là khát vọng hòa bình.
“Chúng tôi đều trải qua những giai đoạn lịch sử khó khăn của đất nước, trải qua các cuộc chiến tranh, sau bước vào thời kỳ hòa bình, tái thiết đất nước với nhiều khó khăn thử thách và đến giai đoạn phát triển bền vững như hôm nay. Chính vì vậy, chúng tôi càng trân trọng giá trị của hòa bình, luôn mong đất nước được yên ổn để phát triển lâu dài”, Thượng tướng Võ Văn Tuấn nhấn mạnh.

Thượng tướng Võ Văn Tuấn, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam chia sẻ tại tọa đàm.
Thượng tướng Võ Văn Tuấn cũng chia sẻ thêm, trong quá trình công tác, ông từng phụ trách mảng đối ngoại của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam và giữ cương vị Phó Trưởng ban Chỉ đạo lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Bộ Quốc phòng.
“Đây cũng là cơ hội để tôi tiếp tục phát huy tinh thần đối ngoại, đóng góp cho hòa bình, ổn định và sự phát triển chung”, Thượng tướng Võ Văn Tuấn nói.
Thượng tướng Võ Văn Tuấn là một vị tướng trưởng thành từ Không quân, sau đó công tác tại Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những lãnh đạo cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam. Đây là niềm tự hào lớn và cũng là dấu mốc quan trọng trong công tác đối ngoại quốc phòng.
Thượng tướng Võ Văn Tuấn chia sẻ, Việt Nam là đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh, phải đánh đổi bằng sự hy sinh to lớn của hàng triệu người con để giành độc lập, tự do. Vì vậy, giá trị của hòa bình vô cùng thiêng liêng, cần được giữ gìn và vun đắp bền vững. Một trong những nội dung quan trọng để bảo vệ hòa bình chính là đối ngoại quốc phòng.
Theo Thượng tướng, mặc dù Việt Nam triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc muộn hơn nhiều quốc gia, nhưng chủ trương đã được Bộ Chính trị thông qua từ cách đây hơn 15 năm. Từ năm 2012, Bộ Quốc phòng bắt đầu xây dựng kế hoạch triển khai. Giai đoạn đầu, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho lực lượng này.
Năm 2014, Việt Nam chính thức cử hai sĩ quan đầu tiên tham gia Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan. Sau một năm, tại hội nghị sơ kết, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã đánh giá cao, khẳng định sự tham gia của sĩ quan Việt Nam là nghiêm túc, trách nhiệm, góp phần giữ gìn hòa bình từ xa, bảo vệ Tổ quốc từ xa.
Bên cạnh hoạt động trong khuôn khổ Liên hợp quốc, công tác đối ngoại quốc phòng còn được triển khai sâu rộng trong quan hệ song phương, nhất là với các nước láng giềng.
“4 không, một đồng, một tùy” – nguyên tắc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Trả lời câu hỏi của phóng viên về quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” từ góc độ đối ngoại, Thượng tướng Võ Văn Tuấn nhấn mạnh: Hiện nay, thế giới không còn đơn cực hay lưỡng cực mà chuyển sang đa cực, các quốc gia đều đề cao sự bình đẳng. Tuy nhiên, tình hình diễn biến rất phức tạp, nhiều xung đột, chiến tranh nổ ra khó lường. Chính vì vậy, để giữ ổn định, Việt Nam chủ trương tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, vừa thực hiện sứ mệnh quốc tế, vừa khẳng định khát vọng hòa bình của dân tộc.

Thượng tướng Võ Văn Tuấn khẳng định: Những nguyên tắc quan trọng để bảo đảm Tổ quốc được bảo vệ từ sớm, từ xa” đó là “4 không”, “một đồng, một tùy”.
Ông cũng dẫn lại Sách trắng quốc phòng của Việt Nam với quan điểm 4 không gồm: không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Những năm gần đây, Việt Nam bổ sung thêm “một đồng” và “một tùy”.
Những nguyên tắc quan trọng để bảo đảm Tổ quốc được bảo vệ từ sớm, từ xa” đó là “4 không”, “một đồng, một tùy”. "Một đồng” là sẵn sàng tham gia các cơ chế an ninh-quốc phòng đa phương khi cần thiết, điển hình như các diễn đàn ADMM+ trong khuôn khổ ASEAN, góp phần xây dựng lòng tin, hiểu biết lẫn nhau để ngăn ngừa sớm nguy cơ xung đột. “Một tùy” là tùy tình hình cụ thể, Việt Nam có thể tăng cường đoàn kết, kết nối với các quốc gia có cùng lợi ích, đối mặt thách thức an ninh chung, qua đó tạo thành sức mạnh răn đe, giữ vững chủ quyền và hòa bình.
Thượng tướng Võ Văn Tuấn, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
“Một đồng” là sẵn sàng tham gia các cơ chế an ninh-quốc phòng đa phương khi cần thiết, điển hình như các diễn đàn ADMM+ trong khuôn khổ ASEAN, góp phần xây dựng lòng tin, hiểu biết lẫn nhau để ngăn ngừa sớm nguy cơ xung đột.
“Một tùy” là tùy tình hình cụ thể, Việt Nam có thể tăng cường đoàn kết, kết nối với các quốc gia có cùng lợi ích, đối mặt thách thức an ninh chung, qua đó tạo thành sức mạnh răn đe, giữ vững chủ quyền và hòa bình.
“Có thể nhớ ngắn gọn: trước đây là “4 không”, nay thêm “một đồng, một tùy”. Đây là những nguyên tắc quan trọng để bảo đảm Tổ quốc được bảo vệ từ sớm, từ xa”, Thượng tướng Võ Văn Tuấn khẳng định.

Các bạn trẻ đã đặt nhiều câu hỏi với các vị khách mời liên quan đến các kỹ năng mềm trong công tác đối ngoại.
Tại tọa đàm, các bạn trẻ đã đặt nhiều câu hỏi với các vị khách mời liên quan đến các kỹ năng mềm trong công tác đối ngoại cũng như trong việc tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đồng thời nâng cao vị thế quốc gia trong bối cảnh Việt Nam vươn mình trong hội nhập quốc tế.
Thông qua các câu chuyện thực tế mà các khách mời đã chia sẻ tại tọa đàm, chúng ta có dịp nhìn lại chặng đường hội nhập trong suốt 95 năm dưới ánh sáng lá cờ Đảng soi đường. Với những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, từ một nước từng bị bao vây, cấm vận, kinh tế khó khăn, Việt Nam đã lựa chọn bước đi chiến lược là hội nhập về kinh tế trước, mở đường cho việc tham gia sâu rộng hơn vào các hiệp định thương mại tự do. Từ nền tảng đó, Việt Nam từng bước mở rộng hợp tác sang nhiều lĩnh vực khác, tiến tới hội nhập toàn diện và sâu rộng.