Việt Nam: Điểm sáng chống đói nghèo
Với những kỳ tích trong hành trình giảm nghèo suốt 80 năm qua (2/9/1945-2/9/2025), Việt Nam đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều quốc gia đang phát triển, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trên thế giới về chống đói nghèo và là một trong những quốc gia tiên phong tiếp cận và áp dụng phương pháp giảm nghèo đa chiều để thực hiện mục tiêu an sinh xã hội toàn dân và giảm nghèo bền vững.

Việt Nam được đánh giá là “một trong những quốc gia giảm nghèo nhanh nhất và ấn tượng nhất trong lịch sử hiện đại”. Ảnh: TL
Hành trình 80 năm “Không để ai bị bỏ lại phía sau”
Cách đây 80 năm, ngày 2/9/1945, ngay sau khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng là “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Bởi khi đó, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ, nạn đói hoành hành. Người xác định mục tiêu “làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành” là ưu tiên chiến lược.
Trải qua hàng chục năm kháng chiến bảo vệ, xây dựng đất nước, đến năm 1993, Việt Nam công bố tiêu chí nghèo quốc gia đơn chiều quy theo lương thực. Theo đó, hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 20 kg gạo/tháng đối với thành thị, dưới 15kg gạo/tháng đối với khu vực nông thôn; hộ đói là hộ có bình quân thu nhập đầu dưới 13kg gạo/tháng đối với thành thị, dưới 8kg gạo/tháng đối với khu vực nông thôn. Với chuẩn nghèo này, tỷ lệ hộ nghèo của nước ta là 58,1% - theo báo cáo của Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX, ngày 07/12/1993.
Đến năm 2010, tại Phiên họp khóa 49 của Ủy ban Phát triển xã hội Liên hợp quốc với chủ đề “Xóa nghèo, mối quan hệ qua lại giữa hòa nhập xã hội với việc làm đầy đủ và tốt đẹp cho mọi người”, Phó trưởng Phái đoàn Đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc - Đại sứ Bùi Thế Giang - thông báo, Việt Nam đã về đích sớm trong việc thực hiện mục tiêu đầu tiên về xóa nghèo trong 8 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc với việc giảm tỷ lệ người nghèo trong dân cư từ 58,1% xuống còn 9,45%.
Có thể thấy, từ một nước nghèo nàn, kiệt quệ sau chiến tranh, Việt Nam đã được Ngân hàng Thế giới (WB) và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đánh giá là “một trong những quốc gia giảm nghèo nhanh nhất và ấn tượng nhất trong lịch sử hiện đại”. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Trong hành trình ấy, nhiều giai đoạn mang dấu ấn nổi bật:
Giai đoạn 1993-2000: Bước ngoặt quan trọng trong chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Lần đầu tiên, Việt Nam ban hành chuẩn nghèo quốc gia và áp dụng các chính sách hỗ trợ mục tiêu giảm nghèo. Nhiều chính sách xóa đói, giảm nghèo ra đời, đặc biệt là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi và vùng sâu, vùng xa theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 (Chương trình 135).
Giai đoạn 2001-2010: Việt Nam không chỉ giảm nghèo về thu nhập mà bắt đầu mở rộng tiếp cận các tiêu chí về giáo dục, y tế, nước sạch theo hướng đa chiều. Chương trình 134 ra đời theo quyết định số 134/2004/QĐ-TTg (hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn) cùng Chương trình 135 là hai Chương trình cốt lõi của công cuộc xóa đói giảm nghèo, giúp hàng triệu hộ dân cải thiện sinh kế. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam đạt được nhiều Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc trước thời hạn.
Giai đoạn 2011-2020: Việt Nam chính thức áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, coi nghèo không chỉ là thiếu gạo mà còn thiếu cơ hội tiếp cận dịch vụ cơ bản. Tỷ lệ nghèo giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 4,8% (năm 2020). Nhiều địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số bắt đầu chuyển từ “trợ cấp” sang “trao cơ hội” thông qua hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, tín dụng ưu đãi.
Giai đoạn 2021-2025: Là giai đoạn then chốt khi đất nước đối mặt với dịch Covid-19, thiên tai và biến đổi khí hậu, nhưng vẫn duy trì kết quả giảm nghèo bền vững. Tính đến tháng 6/2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc đã giảm xuống còn khoảng 1,93%. Đối với các huyện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 45% xuống còn 24,86%, còn tại khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ này đã giảm từ 25% xuống chỉ còn 12,55%.
Điểm nổi bật của giai đoạn này là chuyển từ “cho con cá” sang “cho cần câu”. Nhà nước không chỉ trợ cấp mà còn khuyến khích khởi nghiệp nông thôn, phát triển Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), mở rộng đào tạo nghề, tạo việc làm xanh. Chính sách giảm nghèo gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo “Không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Chỉ trong 4 năm (2021-2025), Việt Nam đã đạt và vượt các mục tiêu giảm nghèo mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Ảnh: TL
Những con số mang giá trị nhân văn
Giai đoạn 2021-2025, Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” do Thủ tướng Chính phủ phát động được triển khai sâu rộng. Chính phủ phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huy động mọi nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường, phát hiện và nhân rộng các điển hình, mô hình giảm nghèo hiệu quả, sáng kiến giảm nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.
Báo cáo của Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, chỉ trong 4 năm (2021-2025), Việt Nam đã đạt và vượt các mục tiêu giảm nghèo mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 5,2% (năm 2021) xuống còn 1,93% (năm 2024) và dự kiến cuối năm 2025 còn khoảng 0,9-1,1%. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm xuống 12,55%, bình quân giảm tới 4,45%/năm.
Phó Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo - ông Phạm Hồng Đào - cho hay, Việt Nam là 1 trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là một trong những quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
“Việt Nam đã 8 lần ban hành chuẩn nghèo quốc gia theo mô hình tháp giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu người nghèo từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ. Những thành quả này được nhân dân cả nước ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá đây là một trong những thành công nổi bật nhất, ý nghĩa nhân văn nhất của Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế” - ông Đào nhấn mạnh.
Cũng theo Phó Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương đã vào cuộc mạnh mẽ, phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện; huy động sự hưởng ứng tích cực của cả xã hội. Nhận thức của người nghèo dần thay đổi, cơ bản không còn ỷ lại, có nhiều tấm gương, điển hình thoát nghèo, tình nguyện xin ra khỏi danh sách hộ nghèo.
Đặc biệt, Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Cùng với đó, các chương trình, cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo được Chính phủ ban hành đồng bộ, toàn diện để hỗ trợ toàn diện cho người nghèo, có chính sách giảm nghèo đặc thù, ưu tiên đối với các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn; từng bước giảm dần và bãi bỏ những chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện.
Nổi bật, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã tích cực lồng ghép giới trong các hoạt động, đảm bảo bình đẳng giới và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em gái tại các khu vực nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Theo đó, thu nhập được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, nhất là người dân sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn.
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, liên kết vùng được ưu tiên đầu tư, làm thay đổi bộ mặt địa bàn nghèo, đặc biệt khó khăn, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nhiều địa phương đã nỗ lực thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Có 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn (đạt 35%) và 3 huyện nghèo thoát nghèo.
Để hướng tới mục tiêu “Vì một Việt Nam không còn đói nghèo”, ông Đào cho biết, Việt Nam đang xây dựng chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030, nâng mức thu nhập dự kiến lên 2,8 triệu đồng/người/tháng ở thành thị và 2,2 triệu đồng/người/tháng ở nông thôn. Các tiêu chí tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như thông tin, nước sạch, vệ sinh và môi trường cũng được điều chỉnh. Công tác giảm nghèo được lồng ghép chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, gắn với phát triển kinh tế xanh, chuyển đổi số, thích ứng biến đổi khí hậu và các mô hình sinh kế bền vững.
“Việt Nam cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, trong đó có các mục tiêu là chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; đảm bảo giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng; giảm bất bình đẳng trong xã hội” - ông Đào khẳng định./.
Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/viet-nam-diem-sang-chong-doi-ngheo-43834.html









![[Infographic] Chính phủ Việt Nam đương nhiệm](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w250_r3x2/2025_10_25_424_53585385/e14f1d1170589906c049.jpg)

