Việt Nam và Malaysia có tiềm năng thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực

Kim ngạch thương mại giữa hai nước Việt Nam-Malaysia đã có sự tăng trưởng đáng kể: từ 8 tỷ USD năm 2015 lên 14,2 tỷ USD năm 2024 với nhiều sản phẩm chủ lực như điện tử, dầu mỏ, cao su.

Sáng 28/5, tại Kuala Lumpur, Malaysia, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và phát biểu tại Phiên thảo luận “Lưới thông minh kết nối thông qua hợp tác tự chủ AI” trong khuôn khô Diễn đàn Kinh tế ASEAN - Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (ASEAN - GCC) năm 2025. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Sáng 28/5, tại Kuala Lumpur, Malaysia, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và phát biểu tại Phiên thảo luận “Lưới thông minh kết nối thông qua hợp tác tự chủ AI” trong khuôn khô Diễn đàn Kinh tế ASEAN - Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (ASEAN - GCC) năm 2025. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Thông qua Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện được ký kết vào tháng 11/2024, Việt Nam và Malaysia đang có tiềm năng thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực mới như chuyển đổi xanh, an ninh, kinh tế số.

Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Kuala Lumpur, ông Collins Chong Yew Keat - chuyên gia đối ngoại và an ninh tại Đại học Malaysia - cho rằng chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính tới Malaysia vừa qua đã góp phần củng cố hơn nữa những kết quả hợp tác đạt được giữa hai nước.

Theo ông Collins, kim ngạch thương mại giữa hai nước đã có sự tăng trưởng đáng kể: từ 8 tỷ USD năm 2015 lên 14,2 tỷ USD năm 2024 với nhiều sản phẩm chủ lực như điện tử, dầu mỏ, cao su.

Tuy nhiên, hai nước cần tận dụng tốt hơn nữa tư cách thành viên của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nghiên cứu đưa ra thỏa thuận công nhận tiêu chuẩn công nghiệp lẫn nhau, giảm bớt các rào cản thương mại và thủ tục hải quan để giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, qua đó thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất khẩu hai nước.

Trong lĩnh vực bán dẫn, ông Collins đánh giá hai nước có tiềm năng hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Malaysia hiện là một trong những trung tâm sản xuất chất bán dẫn lâu đời ở khu vực và là nước xuất khẩu bán dẫn lớn thứ 6 thế giới, chiếm 13% thị phần toàn cầu trong lĩnh vực thử nghiệm và đóng gói chip.

Trong khi đó, Việt Nam đang nổi lên là một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư với lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao.

Do đó, Malaysia mong muốn hợp tác với Việt Nam trong ngành bán dẫn, vì mỗi nước đều có thế mạnh riêng.

Bên cạnh hợp tác song phương, chuyên gia Collins cũng gợi ý Malaysia và Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác với các quốc gia thành viên khác trong ASEAN trên tinh thần đoàn kết và cùng phát triển nhằm phát huy tối đa sức mạnh của khu vực.

Trong bối cảnh Malaysia và Việt Nam đều đang hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, ông Collins cho rằng hợp tác năng lượng và chuyển đổi xanh hiện là một trong những trọng tâm chiến lược giữa hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo.

Trong năm Chủ tịch ASEAN, Malaysia đã đưa ra chương trình nghị sự thúc đẩy Chuyển đổi năng lượng công bằng (JET) trong khu vực nhằm thúc đẩy chuyển đổi từ các nguồn năng lượng hóa thạch sang năng lượng sạch, ít gây phát thải carbon, đồng thời đảm bảo việc chuyển đối phải diễn ra công bằng và toàn diện để không ai bị bỏ lại phía sau. Việt Nam, với vai trò và vị thế ngày càng tăng ở ASEAN, sẽ là đối tác chủ chốt của Malaysia trong lĩnh vực này.

Về lĩnh vực an ninh quốc phòng, hai nước đã ký gia hạn Bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác quốc phòng vào năm 2023 nhằm duy trì liên lạc và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chung.

Chuyên gia Collins cho rằng mặc dù hai nước đều duy trì chính sách trung lập, không liên kết nhưng điều này sẽ không làm suy giảm hiệu quả của MoU. Trong thời gian tới, hai nước sẽ cần nỗ lực thúc đẩy hợp tác trong ngăn chặn và ứng phó với các mối đe dọa, cả truyền thống và phi truyền thống.

Bên cạnh đó, sản phẩm Halal và nông nghiệp cũng đóng vai trò là những lĩnh vực then chốt trong hợp tác song phương giữa Malaysia và Việt Nam, qua đó giúp hai nền kinh tế bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Việt Nam đặt mục tiêu tham gia sâu rộng hơn vào thị trường Halal toàn cầu có trị giá 3.000 tỷ USD và mong muốn nhận được tiêu chuẩn Halal từ Cục Phát triển Hồi giáo Malaysia (JAKIM).

Ngược lại, Malaysia phụ thuộc vào gạo nhập khẩu và xác định Việt Nam - quốc gia có tổng kim ngạch xuất khẩu gạo cao kỷ lục, lên tới 9 triệu tấn trong năm 2024 - sẽ là một phần trong chiến lược đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Cũng theo chuyên gia Collins, Việt Nam có thể nghiên cứu đưa ra các cam kết cung cấp gạo cho Malaysia trong dài hạn. Ngược lại, Malaysia sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đạt được chứng nhận Halal. Đây là một trong nhiều ví dụ cho thấy hai nước có nhiều tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực lương thực và thực phẩm.

 Hành khách chờ làm thủ tục lên chuyến bay VN 680 (Kuala Lumpur-Hà Nội) tại sân bay quốc tế Kuala Lumpur tối 1/4/2025. (Ảnh: Hằng Linh/TTXVN)

Hành khách chờ làm thủ tục lên chuyến bay VN 680 (Kuala Lumpur-Hà Nội) tại sân bay quốc tế Kuala Lumpur tối 1/4/2025. (Ảnh: Hằng Linh/TTXVN)

Về lĩnh vực lao động, giáo dục, du lịch, giao lưu nhân dân, trao đổi nguồn nhân lực, ông Collins cho rằng đây đều là những lĩnh vực quan trọng. Hiện tại, hai nước đều cần nhiều lao động tay nghề có trình độ cao nên việc công nhận Chứng chỉ Giáo dục, Đào tạo Kỹ thuật và Nghề nghiệp (TVET) sẽ giúp hai nước bổ sung, chia sẻ kinh nghiệm trong việc nâng cao trình độ cho người lao động, đồng thời giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để tìm kiếm thông tin và tuyển dụng lao động.

Hai nước cũng có thể nghiên cứu thúc đẩy hợp tác hơn nữa giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, qua đó mở ra triển vọng hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Lĩnh vực du lịch cũng là một trong những ngành có đóng góp quan trọng vào Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả hai nước. Việc phát triển nhiều thành phố kết nghĩa hay tổ chức các sự kiện xúc tiến du lịch đến những địa điểm nổi tiếng của hai nước, đồng thời tổ chức hội chợ và tăng cường quảng bá thông qua các nền tảng số sẽ giúp thu hút nhiều hơn nữa du khách từ hai bên.

Trong lĩnh vực kinh tế số và đổi mới, Việt Nam và Malaysia nằm trong số các thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất khối, song còn có sự khác biệt về tiêu chuẩn, chế độ quản lý dữ liệu. Do đó, cơ quan chức năng và doanh nghiệp hai bên cần tăng cường tiếp xúc để chia sẻ thông tin, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, qua đó giảm bớt sự khác biệt, đồng thời củng cố hơn nữa tiềm năng hợp tác giữa hai nước.

Hợp tác đa phương và đảm bảo ổn định chuỗi cung ứng là yếu tố quan trọng, qua đó giúp các doanh nghiệp tham gia sâu rộng hơn vào mạng lưới sản xuất ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và tạo điều kiện thuận lợi trong đàm phán hợp tác với các tập đoàn công nghệ ngoài khu vực.

Ông Collins cho rằng hai nước có thể nghiên cứu hình thức huy động nguồn vốn từ Quỹ Tài sản Quốc gia Khazanah Nasional và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để hỗ trợ các công ty khởi nghiệp trong những lĩnh vực mới nổi như chuyển đổi xanh và kỹ thuật số.

Vị chuyên gia này đánh giá Malaysia và Việt Nam hiện có nhiều tiềm năng hợp tác chiến lược trên cả mặt trận chính trị và kinh tế. Bằng cách hiện thực hóa Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện được ký kết năm ngoái và thông qua các dự án cụ thể như sản xuất chất bán dẫn, năng lượng xanh, an ninh hàng hải, thương mại, halal, kết nối kỹ thuật số cũng như tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong ASEAN, hai nước sẽ có nhiều cơ hội tăng cường hợp tác thực chất và hiệu quả; góp phần vào hòa bình, ổn định và thúc đẩy sự thịnh vượng chung; đồng thời củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong bối cảnh thế giới còn nhiều biến động./.

(TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/viet-nam-va-malaysia-co-tiem-nang-thuc-day-hop-tac-tren-nhieu-linh-vuc-post1043937.vnp