Vỏ thân cây núc nác tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực dược phẩm và thực phẩm chức năng

Trong cây núc nác, flavonoid là nhóm hợp chất có tác dụng chống gốc tự do – một nguyên nhân chính gây ra các bệnh mãn tính như ung thư, tiểu đường, tim mạch và lão hóa sớm.

Tiềm năng của loài dược liệu truyền thống

Nhóm các nhà khoa học gồm Trần Trung Trinh, Đỗ Thị Anh Thư, Đặng Thị Lệ Thủy, Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng TPHCM) vừa nghiên cứu thành công đề tài phân lập chất theo hướng tác dụng chống oxy hóa từ vò thân cây núc nác

Cây núc nác (Oroxylum indicum) – một vị thuốc dân gian quen thuộc ở Việt Nam – đang cho thấy tiềm năng lớn trong việc ứng dụng vào lĩnh vực dược phẩm và thực phẩm chức năng nhờ khả năng chống oxy hóa mạnh mẽ. Nghiên cứu của nhóm tác giả Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng đã phân lập thành công hợp chất chrysin từ vỏ thân cây núc nác, một flavonoid có hoạt tính sinh học nổi bật, thậm chí vượt qua cả vitamin C trong thử nghiệm bắt gốc tự do.

Phát hiện chất chống oxy hóa mạnh từ vỏ thân cây núc nác.

Phát hiện chất chống oxy hóa mạnh từ vỏ thân cây núc nác.

Theo TS Đặng Thị Lệ Thủy, núc nác là loài cây thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae), mọc phổ biến ở các nước nhiệt đới như Việt Nam. Trong y học cổ truyền, các bộ phận của cây – đặc biệt là vỏ và hạt – thường được dùng để chữa viêm da, mề đay, viêm gan, ho, tiêu chảy… Y văn hiện đại cũng ghi nhận các hoạt tính sinh học đáng chú ý của núc nác như kháng viêm, chống dị ứng, bảo vệ gan và chống oxy hóa.

Một số nghiên cứu cho thấy thành phần hóa học của núc nác rất phong phú, bao gồm flavonoid, triterpenoid, coumarin, napthalenoid, stilbenoid… Trong đó, flavonoid là nhóm hợp chất được quan tâm nhiều nhất nhờ tác dụng chống gốc tự do – một nguyên nhân chính gây ra các bệnh mãn tính như ung thư, tiểu đường, tim mạch và lão hóa sớm.

Mẫu vỏ thân cây núc nác được thu hái tại Vườn dược liệu của Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng. Sau khi làm khô và nghiền nhỏ, 500g mẫu được chiết bằng ethanol 96% và phân tách bằng các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexan, ethyl acetat và nước, cho ra ba phân đoạn tương ứng.

Nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá khả năng chống oxy hóa của từng phân đoạn bằng phương pháp DPPH – một kỹ thuật phổ biến để xác định khả năng bắt gốc tự do. Kết quả cho thấy cao chiết ethyl acetat (Oro B) có hiệu quả cao nhất với giá trị IC₅₀ = 38,27 µg/mL, trong khi các phân đoạn n-hexan và nước có hoạt tính yếu hơn (IC₅₀ > 120 µg/mL). Từ đây, nhóm chọn phân đoạn Oro B để tiếp tục phân lập hoạt chất chính.

Cây núc nác khá to với chiều cao thông thường là 7 – 12m, thậm chí cây có thể cao đến 20 – 25m. Thân cây nhẵn, ít phân nhánh. Vỏ cây có màu xám tro, khi bẻ ra bên trong có màu vàng nhạt, không mùi, đắng và hơi hắc. Phía trên vỏ mang rất nhiều sẹo do cuống lá cũ để lại và nhiều đám nhỏ nổi lên. Lá cây là lá kép lông chim 2 – 3 lần, dài tới 2m. Các lá chét có hình bầu dục, bìa nguyên, đầu nhọn, chiều dài mỗi lá chét từ 7,5 – 15cm và chiều rộng là 5 – 6,5cm.

Phân lập thành công chrysin – flavonoid chống oxy hóa vượt trội

Quá trình phân lập được thực hiện qua nhiều bước: sắc ký cột silica gel, sắc ký Sephadex LH-20 và kiểm tra độ tinh khiết bằng sắc ký lớp mỏng (TLC). Hợp chất thu được có dạng tinh thể màu vàng nhạt, được xác định cấu trúc bằng phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR). Kết quả phân tích phổ cho thấy hợp chất này là chrysin – một flavonoid thuộc nhóm flavone, có công thức phân tử C15H10O4.

Núc nác là một trong những loài dược liệu mang lại giá trị cao.

Núc nác là một trong những loài dược liệu mang lại giá trị cao.

Chrysin thường được tìm thấy trong sáp ong, nấm và một số loài thực vật. Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh chrysin có tác dụng chống oxy hóa, chống viêm, chống ung thư và bảo vệ thần kinh. Tuy nhiên, đây là một trong những lần hiếm hoi hợp chất này được phân lập từ vỏ thân cây núc nác tại Việt Nam.

Để xác định hiệu quả của chrysin, nhóm nghiên cứu tiếp tục thực hiện đánh giá khả năng bắt gốc tự do DPPH với nhiều nồng độ. Tại nồng độ 12,5 µg/mL, chrysin đạt hiệu quả ức chế lên đến 86%, và giá trị IC₅₀ chỉ 5,732 µg/mL – thấp hơn đáng kể so với vitamin C (IC₅₀ = 11,76 µg/mL).

Điều này chứng minh rằng chrysin là một chất chống oxy hóa mạnh, có khả năng hoạt động hiệu quả ngay cả ở nồng độ thấp. Với đặc điểm này, chrysin có thể được ứng dụng trong các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe, ngăn ngừa lão hóa, bảo vệ tế bào khỏi tổn thương do stress oxy hóa – yếu tố góp phần gây ra nhiều bệnh lý hiện đại.

Theo TS Lệ Thủy, việc phân lập được chrysin từ vỏ thân cây núc nác không chỉ mở rộng hiểu biết về thành phần hóa học của dược liệu truyền thống này, mà còn khẳng định tiềm năng lớn trong phát triển các sản phẩm chăm sóc sức khỏe có nguồn gốc thiên nhiên.

Nhiều quốc gia đang ưu tiên phát triển thực phẩm chức năng, mỹ phẩm và thuốc có nguồn gốc thảo dược để thay thế dần các sản phẩm tổng hợp hóa học. Với hoạt tính sinh học mạnh, chrysin có thể trở thành một thành phần lý tưởng trong các công thức chống oxy hóa, bảo vệ da, hỗ trợ điều trị bệnh mãn tính hoặc tăng cường hệ miễn dịch.

Tuy nhiên, để đưa vào ứng dụng thực tế, cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn về độc tính, khả năng hấp thu, chuyển hóa trong cơ thể, cũng như thử nghiệm trên mô hình động vật và lâm sàng. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc khai thác và phát triển nguồn dược liệu bản địa theo hướng hiện đại, bền vững và thân thiện với sức khỏe cộng đồng.

Vỏ thân núc nác có vị đắng, tính hàn, quy vào kinh bàng quang và tỳ. Do đó, dược liệu này có công dụng thanh nhiệt, sát trùng, tiêu độc, chỉ khái, chỉ thống.

Vỏ núc nác được dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đau dạ dày, viêm nhiễm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu ra máu, ho, viêm họng. Ngoài ra, vỏ núc nác còn có thể chữa dị ứng và các bệnh ngoài da (mẩn ngứa, ban, sởi…) và dùng làm thuốc bổ.

Trong dân gian, người ta dùng vỏ núc nác (còn gọi là hoàng bá nam) thay cho vị thuốc hoàng bá thực (vỏ thân phơi khô của cây hoàng bá Phellodendron amurense Rupr, thuộc họ Cam Rutaceae).

PV

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/vo-than-cay-nuc-nac-tiem-nang-ung-dung-trong-linh-vuc-duoc-pham-va-thuc-pham-chuc-nang-169250926221607734.htm