Vốn cho 'Tam nông' cần tách bạch giữa tín dụng chính sách và tín dụng thương mại
Theo ngân hàng, để thúc đẩy lĩnh vực 'Tam nông' phát triển nhanh, bền vững chương trình tín dụng cần tách bạch giữa tín dụng chính sách và tín dụng thương mại.
Dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đạt gần 3,3 triệu tỷ đồng
Tại Việt Nam, nông nghiệp - nông dân - nông thôn (Tam nông) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Đây cũng là vấn đề chiến lược luôn được Đảng, Nhà nước xác định là một trong các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và quan tâm ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn, xuyên suốt qua từng giai đoạn.
Thông tin tại Hội thảo khoa học với chủ đề: “Giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy ‘Tam nông’ phát triển nhanh và bền vững” do Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước phối hợp Tạp chí Ngân hàng tổ chức ngày 9/10, bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Ngân hàng - cho biết, bám sát các chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong những năm qua, ngành Ngân hàng luôn xác định “Tam nông” là một trong những lĩnh vực ưu tiên đầu tư vốn tín dụng, do đó, đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi để tăng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực này.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã thường xuyên rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện mở rộng tín dụng và khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các tổ chức, cá nhân trong mọi lĩnh vực ngành, nghề, trong đó có lĩnh vực “Tam nông”.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng để tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, như quy định chính sách trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn (đến đầu năm 2024 là 4%/năm) đối với các lĩnh vực ưu tiên, tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; có chính sách khuyến khích tổ chức tín dụng giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, giảm hệ số rủi ro đối với các khoản vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoặc đầu tư vào lĩnh vực này thông qua tái cấp vốn.
Làm rõ hơn các kết quả đạt được của ngành Ngân hàng trong việc đồng hành cùng lĩnh vực “Tam nông”, bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước - cho biết, đến nay, đã có trên 90 tổ chức tín dụng và gần 1.100 Quỹ Tín dụng nhân dân tham gia cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Mạng lưới tổ chức tín dụng không ngừng được mở rộng đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để giúp người dân tại các vùng kinh tế khó khăn tiếp cận được nguồn vốn vay, dịch vụ ngân hàng để phát triển.
Đáng chú ý, dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đạt gần 3,3 triệu tỷ đồng, chiếm 1/4 tổng vốn tín dụng của toàn nền kinh tế; tăng gấp gần 4 lần sau 9 năm Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (Nghị định số 55) được ban hành, với mức tăng trưởng luôn cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung.
Cụ thể, bình quân giai đoạn 2016 - 2023, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng 16,27%, cao hơn mức tăng 14,91% của tín dụng chung toàn nền kinh tế. Chất lượng tín dụng lĩnh vực nông nghiệp nông thôn luôn được kiểm soát, với tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp.
Đầu tư tín dụng đã đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu sản xuất nông nghiệp từ sản xuất đến thu mua chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đến nhu cầu cho tiêu dùng của người dân tại khu vực nông thôn. Trong đó, tỷ trọng cho vay phục vụ thu mua, chế biến, bảo quản tiêu thụ nông lâm thủy sản, phục vụ công nghiệp, thương mại, cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp và tiêu dùng trên địa bàn nông thôn có xu hướng tăng.
Tín dụng đối với nhóm ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có tỷ trọng tăng dần qua các năm, từ 31% năm 2016 lên gần 39% năm 2023, với tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dư nợ nông nghiệp, nông thôn bình quân. Đến cuối năm 2023, tín dụng đối với ngành lúa, gạo tăng 24,09% so với cuối năm 2022; thủy sản tăng 12,83%; cà phê tăng 21,56%; rau quả tăng 11,33%.
Cùng với đó, nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng trên 60%/tổng nguồn lực thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2 (2016 - 2020), cao hơn so với tỷ lệ đặt ra tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg, đã góp phần hoàn thành Chương trình sớm 18 tháng so với mục tiêu đề ra và vượt mục tiêu 10 năm (giai đoạn 2010 - 2020); đến cuối năm 2023 vốn tín dụng thực hiện Chương trình đạt 1,9 triệu tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định 263/QĐ-TTg ngày 22/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ (giai đoạn 2021 - 2025).
Chia sẻ về hoạt động tín dụng “Tam nông” tại ngân hàng, ông Hoàng Minh Ngọc, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) cho biết, tỉ trọng cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong các năm qua luôn chiếm trên 60% tổng dư nợ cho vay tại ngân hàng. Vốn tín dụng Agribank đã phủ kín đến 100% số xã trên cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh, tạo việc làm và nâng cao đời sống, thu nhập, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Ông Nguyễn Đức Hải, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội cũng chia sẻ: “Nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, các hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác ở khu vực nông thôn, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển sản xuất, kinh doanh vươn lên thoát nghèo. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại vùng nghèo, diện mạo khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khởi sắc rõ rệt”.
Nhiều khó khăn cần tháo gỡ
Có thể thấy, dòng vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, để người dân, doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, áp dụng cơ giới hóa, khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng, tăng đầu tư vào chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, tín dụng lĩnh vực “Tam nông” còn gặp không ít khó khăn như: Biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp; cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều yếu kém, tiếp tục là thách thức lớn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong quá trình phát triển, ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc; chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế. Mặt khác, phần lớn nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, còn thiếu liên kết trong các khâu sản xuất…
Bà Hà Thu Giang cho biết, phát triển tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn đối mặt với khó khăn trong cung ứng vốn giá rẻ, dài hạn. Bởi nguồn vốn chính để các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay khu vực này hiện nay là vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư, có kỳ hạn ngắn, lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, khó khăn còn đến từ việc cho vay không có tài sản đảm bảo, năng lực tài chính, năng lực quản trị của một bộ phận khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, phương án sản xuất kinh doanh còn chưa thuyết phục; khả năng quản lý được dòng tiền trong cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn…
Để hỗ trợ triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, bà Giang cho rằng, cần các giải pháp đồng bộ của các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương, như chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp, vấn đề đất đai trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các chuỗi liên kết nông nghiệp bền vững;... Trong đó, theo bà Giang, cần xem xét mở rộng đối tượng được bảo hiểm và hỗ trợ phí bảo hiểm đối với người nông dân canh tác với diện tích lớn, tại các khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, mất mùa.
Để thúc đẩy “Tam nông” phát triển nhanh và bền vững, ông Hoàng Minh Ngọc đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành xem xét xây dựng các chương trình tín dụng chính sách theo hướng tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, tránh tư tưởng ỷ lại vào vốn ngân sách Nhà nước, tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng hưởng lợi; ưu tiên cho Agribank làm ngân hàng phục vụ các dự án ủy thác đầu tư đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; ưu tiên nhận vốn nhàn rỗi từ các quỹ của Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, quỹ hỗ trợ sắp xếp đối với doanh nghiệp với lãi suất thấp để cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Đồng thời, chỉ đạo các bộ, ngành tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo thị trường đầu ra ổn định cho sản phẩm của khu vực nông nghiệp, nông thôn; có cơ chế xử lý nợ đối với khoản vay không có tài sản bảo đảm theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP.
Đối với các địa phương, ông Hoàng Minh Ngọc đề nghị các địa phương có giải pháp hỗ trợ việc thành lập và phát triển mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong các khâu của quá trình sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác; hỗ trợ phát triển các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Đồng thời, chỉ đạo các ngành, các cấp, phối hợp chặt chẽ hơn nữa để kết hợp lồng ghép, chuyển giao khoa học kỹ thuật đến các hộ nông dân từ đó giúp hộ sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả…
Để tín dụng chính sách đạt hiệu quả cao, ông Nguyễn Đức Hải cũng kiến nghị, tăng cường lồng ghép có hiệu quả giữa việc cho vay vốn và chuyển giao khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn, đào tạo nghề, xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Khuyến khích các địa phương cho vay ủy thác qua ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện các nội dung của Chương trình đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế và các quy định của pháp luật.
Trước những khó khăn trong hoạt động hỗ trợ cho lĩnh vực “Tam nông”, ông Vũ Duy Hưng - Phó Trưởng Ban Điều hành Quỹ Hỗ trợ Nông dân, Hội Nông dân Việt Nam - kiến nghị, Chính phủ tiếp tục ban hành các chủ trương, chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn lớn hơn, thời gian vay dài hơn với lãi suất ưu đãi. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích ngành Ngân hàng tập trung cung cấp tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn; tạo môi trường thu hút các ngân hàng mở rộng thêm nhiều địa điểm giao dịch phục vụ cung cấp tín dụng cho người dân.