Vụ án 'Lừa đảo chiếm đoạt đất' ở Quảng Nam: Ai thực sự là bị hại?

Ngày 04/6 TAND Cấp cao tại Quảng Nam sẽ xử phúc thẩm vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhiều vấn đề cần được làm rõ trong vụ án này.

Các bị cáo trong phiên xét xử sơ thẩm

Các bị cáo trong phiên xét xử sơ thẩm

Kháng cáo nhiều nội dung án sơ thẩm

Các bị cáo gồm: Nguyễn Thành Trung (1981); Nguyễn Đăng May (1985) và Lê Chí Hội (1963) cùng trú tại huyện Đại Lộc (Quảng Nam) cùng bị truy tố, xét xử về các tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” được quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 Bộ luật Hình sự và điểm a, khoản 3, Điều 229 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên xử sơ thẩm trước đó, bị cáo Trung bị tuyên 9 năm tù; bị cáo May 4 năm 6 tháng tù và bị cáo Hội 3 năm 6 tháng tù.

Ngày 22/5/2025, Tòa án Nhân dân cấp cao tại Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 1447/2025/QĐXXPT-HS về việc đưa ra xét xử phúc thẩm hình sự. Dự kiến phiên xử diễn ra vào ngày 04/06/2025 tại Quảng Nam.

Đây là vụ án được dư luận quan tâm, bởi các tranh luận của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan với các nội dung cần được làm sáng tỏ.

Đó là việc người được triệu tập với vai trò người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng họ là bị hại. Việc cơ quan tố tụng xác định họ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng bản chất sự việc.

Kết thúc phiên sơ thẩm, những người được xác định có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, gồm: ông Hồ Hoàng Long (1970), trú V1-C4C1 chung cư Sunrise city, 23 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, TPHCM và vợ chồng ông Nguyễn Công Tấn (1991) và bà Trần Ngọc Trâm (1994), cùng trú tại số 51, đường 19, khu phố Mỹ Phú 1, phường Tân Phú, Quận 7, TPHCM đã có đơn kháng cáo.

Nội dung kháng cáo như sau: Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Quảng Nam xét xử công khai từ ngày 6-7/3/2005 đã không xem xét đến đề nghị của họ về việc yêu cầu thay đổi vị trí tố tụng trong vụ án.

Kháng cáo nội dung mà TAND tỉnh Quảng Nam đã tuyên trong phiên sơ thẩm là: Hủy toàn bộ các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các hộ dân ông Nguyễn Ngọc Vũ; Lê Đức Thành; Nguyễn Văn Đối; Nguyễn Thành Hiếu; Nguyễn Ngọc Vinh; Nguyễn Lương và Lê Viết Tính đã chuyển nhượng cho họ.

Kháng cáo quyết định của TAND tỉnh Quảng Nam tuyên hủy toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) của 07 hộ gia đình. Đề nghị TAND tỉnh Quảng Nam phải giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của 7 hộ gia đình đã chuyển nhượng cho họ…

Theo Kết luận điều tra số 92/VPCQCSĐT – Công an tỉnh Quảng Nam, năm 2007, bị cáo Nguyễn Thành Trung (1981), trú thôn Ngọc Thạch, xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc (Quảng Nam) mua thửa đất số 27, tờ bản đồ số 212, diện tích 545.000 m2 của hộ ông Đỗ Hồng (1954), trú cùng thôn với giá 500 triệu đồng, nhưng chưa sang tên.

Đến tháng 12/2013, do có nhu cầu bán lại thửa đất này, nên Trung đã thỏa thuận bán cho vợ chồng ông Phan Văn Thuận và bà Trần Lương Thị Thế, trú tại TPHCM với giá 13 tỷ đồng. Tuy nhiên, vì mảnh đất này chưa đăng ký biến động sang tên Nguyễn Thành Trung nên Trung đã nhờ ông Đỗ Hồng đại diện ký chuyển nhượng cho ông Thuận và bà Thế.

Tuy nhiên, để thực hiện việc chuyển nhượng, thay đổi biến động thì phải đo đạc lại thửa đất này theo hệ tọa độ chuẩn VN2000 (thửa đất này trước đây đo đạc theo hệ tọa độ UTM).

Ông Thuận bà Thế đã đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đại Lộc tiến hành đo đạc lại. Sau khi đo đạc lại theo hệ tọa độ VN2000 thì đất này bị giảm mất 7,775ha so với diện tích trên GCNQSDĐ và đổi thành thửa đất CC996933, tờ bản đồ số 1, thửa đất số 645 có diện tích 467.250m2.

Theo Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Quảng Nam, năm 2016, khi tiến hành đo đạc để làm thủ tục chuyển nhượng cho vợ chồng ông Thuận bà Thế thì Trung thấy đất rừng liền kề còn nhiều nên đã này sinh ý định làm thủ tục xin cấp GCNQSDĐ.

Được sự hướng dẫn của Nguyễn Đăng May (công chức Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đại Lộc) rằng mỗi người chỉ được cấp không quá 30ha. Vì vậy, Trung đã nhờ Vũ (1973, anh em chú bác ruột với Trung); Thành (1976, hang xóm); Đối (1965, cậu ruột Trung); Vinh (1955, cha ruột Trung; Lương (1965, hang xóm); Tính (1959, chồng dì ruột Trung) và Hiếu (1979, anh ruột Trung), đều trú tại thôn Ngọc Kinh Đông, xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc cùng tham gia đứng tên để làm hồ sơ đo đạc, đề nghị cấp GCNQSDĐ.

Để thực hiện việc này, Trung giao cho Hiếu liên hệ với Lương Đức Diệp là công chức địa chính xã Đại Hồng để nộp hồ sơ và nhận lại GCNQSDĐ. Tháng 3/2016, Hiếu gặp Diệp để nộp giấy đề nghị đo đạc thửa đất. Diệp đã phối hợp với May là người được ông Bùi Xuân Vinh – Giám đốc chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đại Lộc phân công tiếp nhận hồ sơ đo đạc của 7 hộ dân nói trên để thực hiện việc đo đạc.

Sau khi đo đạc đất, Trung đã gặp May để cung cấp giấy tờ liên quan đến 7 hộ dân trên gồm sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân. Đồng thời, thống nhất để May ghi vào hồ sơ đề nghị cấp đất là đất có nguồn gốc sử dụng lâu dài từ năm 2003.

Sau khi có hồ sơ đất, Trung chỉ đạo Hiếu mang tất cả hồ sơ đến gặp Diệp, để Diệp tham mưu cho bà Nguyễn Thị Lạc – Chủ tịch UBND xã Đại Hồng ký xác nhận cuộc họp Hội đồng tư vấn đất đai của xã, ký thông báo niêm yết công khai, khi kết thúc thông báo niêm yết, tờ trình đề nghị cấp GCNQSDĐ, tờ trình đề nghị chỉnh lý bản đồ và hồ sơ địa chính.

Sau đó, tất cả hồ sơ này đã được UBND xã Đại Hồng chuyển đến Văn phòng đăng ký đất đại huyện Đại Lộc. Căn cứ vào hồ sơ May đã kiểm tra, đối chiếu với bản đồ quy hoạch, ông Bùi Xuân Vinh đã ký xác nhận đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ cho 7 hộ dân nói trên.

Tiếp đó, các hồ sơ này được chuyển đến Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Đại Lộc để thẩm tra. Tại đây, Lê Chí Hội (công chức Phòng Tài nguyên Môi trường) được phân công tiếp nhận và tham mưu hồ sơ. Hội đã lập tờ trình đề nghị cấp GCNQSDĐ để tham mưu cho ông Nguyễn Thành Tuấn – Phó trưởng Phòng Tài nguyên Môi trường ký xác nhận gửi UBND huyện Đại Lộc với nội dung hồ sơ lập đúng trình tự, thủ tục đúng quy định.

Ngày 17/3/2017, Chủ tịch UBND huyện Đại Lộc đã ký cấp GCNQSDĐ cho 7 hộ dân trên với tổng diện tích là 159,5189ha.

Cụ thể: Cấp cho hộ ông Vũ GCNQSDĐ số CC996997, thửa đất số 678, tờ bản đồ số 1, diện tích 206,444m2; Hộ ông Thành sổ đất số CC996996, thửa đất số 714, tờ bản đồ số 1, diện tích 215.000m2; Hộ ông Đối sổ đất số CC996998, thửa đất số 668, diện tích 282.250m2; Hộ ông Hiếu sổ đất số CC996961, thửa đất số 711, diện tích 155,068m2; Hộ ông Vinh sổ đất số CC996962, thửa đất số 640, diện tích 205890m2; Hộ ông Lương sổ đất số CC996963, thửa đất số 677, diện tích 239,685m2 và hộ ông Tính sổ đất số CC996995, thửa dất số 659, diện tích 290,852m2.

Tất cả 7 GCNQSDĐ này đều do Trung cất giữ. Đến năm 2018 Trung đem bán 7 thửa đất này cho ông Hồ Hoàng Long và vợ chồng ông Tấn bà Trâm với giá 22,2 tỷ đồng. Trong số này, có thửa đất của ông Tính đã chuyển quyền sử dụng cho ông Long.

Thửa đất của ông Vinh và ông Hiếu đã chuyển quyền sử dụng cho vợ chồng ông Tấn bà Trâm. Sau khi chuyển quyền sử dụng, ông Long và vợ chồng ông Tấn bà Trâm đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật.

Cần đảm bảo lợi ích hợp pháp của người dân

Rõ ràng, việc chính quyền huyện Đại Lộc cấp 7 GCNQSDĐ nói trên đã phải trải qua một quá trình kiểm tra, rà soát, đo đạc theo một trình tự hết sức kỹ lưỡng từ cấp xã cho đến các đơn vị hữu trách và cuối cùng là quyết định của Chủ tịch UBND huyện Đại Lộc.

Việc mua bán các thửa đất này giữa Nguyễn Thành Trung với ông Hồ Hoàng Long và vợ chồng ông Tấn bà Trâm diễn ra hoàn toàn như những giao dịch bình thường. Hơn thế nữa, đã có 3 trong số 7 thửa đất đã được chuyển quyền sử dụng (sang tên) một cách hợp pháp thông qua các cơ quan có thẩm quyền xác nhận và bên mua cũng đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước theo quy định.

Ông Hồ Hoàng Long cho biết, bản thân ông và vợ chồng ông Tấn bà Trâm là những người có nhu cầu mua đất để canh tác trồng rừng. Ông Trung là người có nhu cầu chuyển nhượng 7 thửa đất có GCNQSDĐ. Quá trình mua bán diễn ra bình thường, phía mua đã chuyển tiền cho bên bán theo đúng thỏa thuận.

Thế nhưng, trong quá trình xúc tiến để tiếp tục chuyển quyền sử dụng 4 thửa đất còn lại thì cơ quan chức năng đã phát hiện thấy hành vi vi phạm pháp luật của Nguyễn Thành Trung.

Sau quá trình điều tra, Trung đã bị khởi tố, bắt giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 Bộ luật Hình sự. Như vậy, nếu không phải là ông Long và vợ chồng ông Tấn bà Trâm là những người bị hại, vậy thì ai là bị hại trong vụ án này?

Ông Hồ Hoàng Long cũng đã viện dẫn theo khoản 1, Điều 62 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Trong trường hợp này ông và vợ chồng ông Tấn là nạn nhân bị Nguyễn Thành Trung lừa đảo, lừa đảo với số tiền lớn thông qua việc chuyển nhượng 7 GCNQSDĐ.

Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, ông Hồ Hoàng Long và vợ chồng ông Tấn đã kháng cáo bản án sơ thẩm số 18/2005/HS-ST của TAND tỉnh Quảng Nam.

Đức Huy

PV

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/vu-an-lua-dao-chiem-doat-dat-o-quang-nam-ai-thuc-su-la-bi-hai-post733346.html