Vụ trưởng GDĐH nêu đòn bẩy để giáo dục đại học phát triển trong kỷ nguyên mới

Điểm nghẽn lớn nhất trong triển khai tự chủ đại học thời gian qua nằm ở chính sách, cơ chế và nguồn lực tài chính, nhất là đối với các cơ sở GDĐH công lập.

LTS: Trong hơn 5 năm thực hiện Luật Giáo dục đại học 2018, dù số lượng trường đại học không thay đổi đáng kể nhưng quy mô, chất lượng đào tạo có sự gia tăng rõ rệt, đặc biệt là năng lực quản trị đại học, sự cạnh tranh, tự chủ của cơ sở giáo dục đại học đã được nâng cao.

Nhân dịp đầu Xuân Ất Tỵ, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi cùng Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy – Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) để lắng nghe những chia sẻ tâm huyết về bức tranh và gửi gắm những kỳ vọng trong lộ trình phát triển sắp tới của giáo dục đại học.

Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy – Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy – Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Phóng viên: Thưa Vụ trưởng Nguyễn Thu Thủy, bà có thể chia sẻ về những dấu ấn, thành tựu của giáo dục đại học trong năm 2024?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy: Năm 2024 diễn ra trong bối cảnh các hoạt động kinh tế - xã hội của thế giới và trong nước đã có những chuyển biến tích cực; đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo đã có tác động không nhỏ đối với sự phát triển của giáo dục và đào tạo.

Đây cũng là năm đầu tiên toàn ngành Giáo dục triển khai thực hiện Kết luận 91-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo; sự chia sẻ, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; sự tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; sự quyết liệt, chủ động của lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học đã mang lại cho các cơ sở giáo dục đại học được một số kết quả đáng ghi nhận phải kể đến như:

Từng bước đổi mới tư duy, nhận thức, nâng cao năng lực quản trị đại học, tháo gỡ các điểm nghẽn, khai thông các nguồn lực, đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học đi vào chiều sâu và thực chất, gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học.

Đã triển khai toàn diện các giải pháp bảo đảm chất lượng trong tuyển sinh, đào tạo, nghiên cứu khoa học; gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Đã có nhiều giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho đào tạo và nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo; tăng cường hợp tác, khai thác các nguồn lực từ bên ngoài cho giáo dục đại học.

Đã chủ động tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong toàn bộ hoạt động giáo dục đại học, từ hệ thống quản lý, tuyển sinh, đào tạo, đổi mới phương pháp dạy và học, lấy tiến bộ của người học làm thước đo cho chất lượng, hiệu quả giảng dạy.

Về quản lý nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Bộ cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ một số văn bản quan trọng, mang tính định hướng phát triển hệ thống giáo dục đại học trong thời gian tới như: Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050; Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến 2045; ngoài ra, Bộ cũng đã trình một số đề án triển khai thực hiện các Nghị quyết phát triển vùng kinh tế - xã hội…;

Năm 2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT ngày 05/02/2024 ban hành chuẩn cơ sở giáo dục đại học và Thông tư số 12/2024/TT-BGDĐT ngày 10/10/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT ngày 18/01/2022 quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Đây là căn cứ quan trọng hướng đến quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian tới.

Nhờ vào sự phát triển của đội ngũ giảng viên cả về số lượng, trình độ và năng lực, yếu tố quan trọng nhất quyết định tới chất lượng đào tạo, năm 2024, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt 34% (tăng 1% so với năm 2023). Năng lực đội ngũ giảng viên về phát triển chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra và đánh giá, bảo đảm chất lượng ngày càng được nâng cao.

Chỉ tiêu tuyển sinh do các cơ sở đào tạo xác định tăng đều ở tất cả các trình độ và hình thức đào tạo so với năm trước (chỉ tiêu tiến sĩ tăng 23,52%; chỉ tiêu thạc sĩ tăng 25,46%, riêng chỉ tiêu đào tạo đại học chính quy về cơ bản giữ ổn định, chỉ tăng nhẹ gần 5%).

Số thí sinh dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024 tăng 6,91% so với vào năm 2023, trong khi đó số thí sinh đăng ký xét tuyển vào đại học, cao đẳng ngành giáo dục Mầm non tăng 11,12% so với 2023; đã có trên 551.000 thí sinh xác nhận nhập học đợt 1, chiếm tỷ lệ 81,8% số thí sinh trúng tuyển.

 Khối ngành I: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; Khối ngành II: Nghệ thuật; Khối ngành III: Kinh doanh và quản lý, Pháp luật 4; Khối ngành IV: Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên; Khối ngành V: Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thủy sản, Thú y; Khối ngành VI: Sức khỏe; Khối ngành VII: Nhân văn, Khoa học xã hội và hành vi, Báo chí và thông tin, Dịch vụ xã hội, Khách sạn-du lịch-thể thao và dịch vụ cá nhân, Dịch vụ vận tải, Môi trường và bảo vệ môi trường, An ninh quốc phòng. Số liệu: Bộ GD&ĐT

Khối ngành I: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; Khối ngành II: Nghệ thuật; Khối ngành III: Kinh doanh và quản lý, Pháp luật 4; Khối ngành IV: Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên; Khối ngành V: Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thủy sản, Thú y; Khối ngành VI: Sức khỏe; Khối ngành VII: Nhân văn, Khoa học xã hội và hành vi, Báo chí và thông tin, Dịch vụ xã hội, Khách sạn-du lịch-thể thao và dịch vụ cá nhân, Dịch vụ vận tải, Môi trường và bảo vệ môi trường, An ninh quốc phòng. Số liệu: Bộ GD&ĐT

Quy mô đào tạo đại học chính quy có xu hướng tăng nhẹ so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng đáng kể của lĩnh vực Toán và Thống kê, Máy tính và Công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật,… (tăng 62.060 sinh viên với tỷ lệ 10,59% so với năm 2023). Điều này cho thấy các cơ sở đào tạo đã quan tâm đến xu hướng phát triển bền vững, phát triển các ngành kỹ thuật, công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

Quy mô đào tạo thạc sĩ có xu hướng tăng đều trở lại ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng mạnh nhất của khối ngành đào tạo giáo viên (tăng 3.353 học viên tương ứng tăng 34,79% so với năm 2023), khối ngành Kinh doanh và quản lý, Pháp luật (tăng 3.205 học viên với tỷ lệ tăng 10,48% so với năm 2023),… Khối ngành Nghệ thuật cũng có sự chuyển biến do có sự quan tâm của cơ quan quản lý trực tiếp, quy mô đào tạo thạc sĩ đã tăng tỷ lệ 39,12%.

Quy mô đào tạo tiến sĩ bắt đầu tăng mạnh ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng mạnh nhất của khối ngành Toán và Thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng,… tăng 637 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 33,32% so với năm 2023, Khối ngành Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên tăng 390 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 57,52%, Khối ngành Đào tạo giáo viên tăng 350 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 51,32%.

Thông qua hoạt động khoa học và công nghệ, mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và khu vực doanh nghiệp được tăng cường; hợp tác quốc tế được đẩy mạnh.

Các trường đại học thu hút thêm được nguồn lực tạo điều kiện nâng cao năng lực nghiên cứu và tác động tích cực nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực - yếu tố quyết định cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Năm học 2023-2024, có thêm 12 cơ sở giáo dục được kiểm định và có tổng số 1855 chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học đạt kiểm định chất lượng giáo dục.

Hoàn thành xây dựng 100% các cơ sở dữ liệu của ngành giáo dục, trong đó cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học (HEMIS) đã số hóa 470 cơ sở đào tạo, trên 25.000 chương trình đào tạo, trên 100.000 hồ sơ cán bộ, gần 3 triệu hồ sơ người học.

 Ảnh minh họa: Sinh viên Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội

Ảnh minh họa: Sinh viên Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội

Phóng viên: Theo bà chia sẻ cho thấy, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc. Vậy thưa bà, giáo dục đại học Việt Nam đã đủ tầm bứt phá để thu hẹp khoảng cách so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới chưa? Vì sao?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy: Chất lượng giáo dục đại học đã có nhiều cải thiện, có việc thu hẹp khoảng cách so với các nước tiên tiến; tuy nhiên, vẫn còn có khoảng cách đáng kể so với các nước phát triển, giữa các cơ sở giáo dục đại học và giữa các ngành đào tạo. Vì một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, là do nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học còn rất thấp, thiếu những chính sách, cơ chế tài chính hiệu quả. Dù các cơ sở giáo dục đại học rất nỗ lực trong thúc đẩy các hoạt động dịch vụ và tìm kiếm các nguồn lực khác, nguồn thu của các trường vẫn chủ yếu đến từ học phí. Khác với giáo dục phổ thông, các cơ sở giáo dục đại học trong nước phải cạnh tranh với các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài cả về đội ngũ giảng viên giỏi và những sinh viên có điều kiện tài chính. Một tỉ lệ không nhỏ giảng viên đi học tiến sĩ ở nước ngoài không quay trở về trường làm việc, hàng trăm nghìn sinh viên đi du học tự túc với tổng chi phí hàng năm gấp hơn 2 lần tổng nguồn thu của tất cả cơ sở giáo dục đại học trong nước.

Trong thời gian qua, việc đẩy mạnh tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập được gắn với tự chủ tài chính và cắt giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, trong khi cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo mới được triển khai ở diện hẹp (chủ yếu là các ngành đào tạo giáo viên). Điều này dẫn tới việc hầu hết các cơ sở giáo dục đại học sẽ tìm cách tối ưu hóa hoạt động bằng cách mở rộng các ngành, lĩnh vực đào tạo mang lại hiệu quả cao về mặt tài chính.

Một số ngành đào tạo then chốt thuộc lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nông lâm và thủy sản... khó thu hút thí sinh, nhất là ở các trình độ sau đại học, dẫn tới nguy cơ thiếu hụt đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Bên cạnh đó, khi các chính sách hỗ trợ người học chưa được triển khai ở phạm vi rộng, chi phí học tập vẫn còn là một rào cản cho nhiều sinh viên, đặc biệt là đối với các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Thứ hai, là những bất cập về thể chế. Các cơ sở giáo dục đại học công lập gặp khó khăn khi hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, nhất là giữa các quy định về quản lý viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập với các quy định về quản lý giảng viên và cơ sở giáo dục đại học. Mô hình quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập kém hiệu quả khi có tới 58 cơ quan quản lý trực tiếp (cơ quan chủ quản), bao gồm các tổ chức, cơ quan trung ương, địa phương, doanh nghiệp và các đại học quốc gia, đại học vùng.

Thực tế là có sự khác biệt, không thống nhất về phân bổ ngân sách nhà nước, cách thức vận hành và quản lý các cơ sở giáo dục đại học thuộc các cơ quan chủ quản khác nhau. Bên cạnh đó, do đào tạo cao đẳng được tách khỏi hệ thống giáo dục đại học, việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, xây dựng và thực thi hệ thống văn bản pháp luật khó bảo đảm đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.

Phóng viên: Vậy đâu sẽ là đòn bẩy, giải pháp để giáo dục đại học tiếp tục thực hiện sứ mệnh đổi mới căn bản toàn diện trong giai đoạn tới, thưa bà?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy: Như đã phân tích trên đây, điểm nghẽn lớn nhất trong triển khai tự chủ đại học thời gian qua nằm ở chính sách, cơ chế và nguồn lực tài chính, nhất là đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Do vậy, để thực hiện chủ trương chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo chuyển biến căn bản về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trước hết cần có một số chính sách, cơ chế đột phá về tài chính đại học như sau:

Thứ nhất, cải tiến và mở rộng các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người học như tín dụng ưu đãi, học bổng và miễn giảm học phí cho sinh viên, căn cứ đối tượng, điều kiện kinh tế, năng lực học tập và lĩnh vực, ngành học của sinh viên, không phân biệt trường công lập hay tư thục. Như vậy, người dân được mở rộng cơ hội tiếp cận đại học đồng thời các trường đại học có điều kiện mở rộng các chương trình đào tạo chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội, nhất là trong các ngành trọng điểm về khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

Thứ hai, đổi mới phương thức đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước dựa trên các chỉ số ưu tiên về các lĩnh vực, ngành và trình độ đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, ưu tiên trọng tâm theo vùng, địa phương và các chỉ số cốt lõi về năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động (KPIs) của cơ sở giáo dục đại học. Như vậy, chi ngân sách nhà nước vừa bảo đảm tính định hướng, dẫn dắt, đồng thời bảo đảm nâng cao hiệu quả dựa trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng đã quy định tại Luật giáo dục đại học.

Thứ ba, đẩy mạnh triển khai đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sư phạm, y dược và một số ngành, lĩnh vực trọng điểm khác. Đổi mới cơ chế đặt hàng đào tạo gắn với kết quả đầu ra, theo đó cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp, tổ chức là bên đặt hàng sẽ chi trả kinh phí đào tạo dưới dạng tài trợ cho cơ sở giáo dục đại học căn cứ số sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng (và có thể cả mức lương của người được tuyển), thay vì ký hợp đồng hay thỏa thuận theo đầu vào và cam kết đầu ra. Như vậy, cơ chế đặt hàng sẽ được đơn giản hóa về quy trình, thủ tục và loại bỏ rủi ro cho bên đặt hàng, đồng thời thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học cạnh tranh bằng chất lượng đào tạo, thành công của sinh viên tốt nghiệp.

Thứ tư, cần có lộ trình tăng chi ngân sách nhà nước để đạt mức tương đương với các nước có hệ thống giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và thế giới, tập trung đầu tư nâng cấp các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm quốc gia ngang tầm khu vực và làm nòng cốt dẫn dắt phát triển cả hệ thống giáo dục đại học.

Thứ năm, tập trung nguồn lực, ưu tiên tổ chức triển khai quyết liệt Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Bên cạnh đề xuất đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng đề án để triển khai mô hình giáo dục đại học số (digital higher education), coi đây là một đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu tăng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.

Giáo dục đại học số được thiết kế như một mạng lưới chia sẻ tài nguyên số và cộng tác cung cấp dịch vụ chung giữa các cơ sở giáo dục đại học. Tất cả các cơ sở giáo dục đại học, tất cả giảng viên có thể tham gia sử dụng chung một nền tảng để cùng phát triển các khóa học, các chương trình đào tạo, để cùng sử dụng, cùng chia sẻ lợi ích. Mỗi cơ sở giáo dục đại học, mỗi giảng viên sẽ tập trung phát triển những khóa học mà mình có lợi thế vượt trội, như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Một khóa học không chỉ cung cấp cho sinh viên của một khoa, một trường, mà có thể cho sinh viên toàn quốc, thậm chí cho cả sinh viên quốc tế. Đó chính là đột phá về quy mô và hiệu quả đào tạo.

Trong giáo dục đại học số, sinh viên của một trường đại học có thể học một chương trình do nhiều trường cùng hợp tác cung cấp, được chọn học khóa học phù hợp nhất với giảng viên giỏi nhất, được chọn phòng thí nghiệm ảo tốt nhất, được chọn học chung với sinh viên các trường khác, kể cả sinh viên quốc tế. Mô hình đào tạo theo tín chỉ không còn dừng ở phạm một trường đại học, mà đã được mở rộng ra phạm vi toàn hệ thống, phạm vi toàn cầu. Đó chính là đột phá về chất lượng đào tạo và tiếp cận đại học.

 Ảnh minh họa: Sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh minh họa: Sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Phóng viên: Thưa bà, trong kỷ nguyên phát triển tới đây, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đứng trước những cơ hội nào? Bà có gửi gắm, kỳ vọng gì đối với các cơ sở giáo dục đại học trên chặng đường mới?

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy: Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, yêu cầu của nền kinh tế tri thức, chuyển số và chuyển đổi xanh, nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố cạnh tranh cốt lõi giữa các quốc gia. Giáo dục đại học đóng vai trò then chốt trong thực hiện đột phá chiến lược về nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để góp phần thực hiện mục tiêu trở thành một nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành một nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, hệ thống giáo dục đại học nước ta còn rất nhiều việc phải làm khi khoảng cách so với các nước tiên tiến còn rất xa. Các cơ sở giáo dục đại học cần ưu tiên tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá sau:

Thứ nhất, là hoàn thiện chiến lược phát triển, kiện toàn tổ chức bộ máy, huy động mọi nguồn lực để nâng cao năng lực quản trị đại học, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, hoàn thiện và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, cải thiện các chỉ số hoạt động của mỗi cơ sở đào tạo, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của chuẩn cơ sở giáo dục đại học.

Thứ hai, là đổi mới mạnh mẽ chương trình và phương thức đào tạo gắn với tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và năng lực nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, nhất là trong các lĩnh vực, ngành trọng điểm theo định hướng phát triển của các vùng và địa phương.

Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ số, nhất là trí tuệ nhân tạo trong toàn hệ thống giáo dục đại học, gắn với cải cách hành chính, đổi mới phương thức quản lý và quản trị nhà trường, đổi mới phương pháp dạy và học, thi và kiểm tra, đánh giá, tạo tác động tích cực cho đổi mới giáo dục phổ thông.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trình độ cao, chuyên gia đầu ngành, đặc biệt là trong một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt, công nghệ cao.

Thứ năm, tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, chuẩn bị tốt các đề án, dự án theo các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị; các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhất là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành công nghệ cao của Việt Nam, trong đó tập trung vào các ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, công nghệ sinh học và năng lượng xanh.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Vụ trưởng Nguyễn Thu Thủy.

Hà An

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/vu-truong-gddh-neu-don-bay-de-giao-duc-dai-hoc-phat-trien-trong-ky-nguyen-moi-post248869.gd