Vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ: Giáo dục cần nhấn mạnh từ khóa 'biển'
Với một vùng có đường bờ biển dài, từ khóa 'biển' phải được nhấn mạnh, tận dụng trong phát triển, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bởi khi kinh tế biển càng phát triển thì nhân lực cho kinh tế biển càng đòi hỏi cao hơn.
Ngày 14/7, tại tỉnh Quảng Trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.
NHIỀU CHỈ SỐ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẤP HƠN BÌNH QUÂN CẢ NƯỚC
Báo cáo về tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết, trong giai đoạn 2011-2022, quy mô và mạng lưới các cấp học được đầu tư phát triển đồng bộ, đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội học tập cho người dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương trong vùng và cả nước. Toàn vùng hiện có 12.322 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên.
Các địa phương đã chú trọng công tác huy động trẻ đến trường và học sinh nhập học đúng độ tuổi. Tỷ lệ huy động trẻ em, học sinh đi học đúng độ tuổi ở cấp học đều gia tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ, trẻ mẫu giáo và trẻ 5 tuổi đều thấp hơn so với bình quân của cả nước và không đồng đều giữa các địa phương trong vùng.
Trong đó, tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến trường của vùng thấp nhất cả nước. Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi các cấp Tiểu học tăng 1,1% so với năm học 2010-2011 tương đương so với bình quân của cả nước. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình giáo dục các cấp học đều thấp hơn bình quân của cả nước.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học từng bước được tăng cường theo hướng kiên cố hóa, chuẩn hóa và từng bước hiện đại hóa. Tuy nhiên, tỷ lệ kiên cố hóa của Vùng thấp hơn 0,5% so với trung bình cả nước và tỷ lệ thiết bị dạy học tối thiểu đạt thấp hơn 0,1% so với trung bình cả nước.
Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia các cấp học tăng dần hằng năm và cao hơn so với bình quân của cả nước. Mặc dù kết cấu hạ tầng các cấp học đã được quan tâm đầu tư. Vẫn có hiện tượng thiếu phòng học cục bộ tại các khu vực có mật độ dân cư cao, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đặc biệt, vẫn còn 1.036 phòng học nhờ, mượn (chiếm 17,4% tổng số phòng học nhờ, mượn trên cả nước), tập trung chủ yếu tại cấp học Mầm non và Tiểu học.
Năm học 2021-2022, toàn vùng có 258.255 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông, thường xuyên, tăng 12.598 giáo viên so với năm học 2010-2011. Tuy nhiên, giống như các vùng khác, tỷ lệ giáo viên/lớp các cấp học trong vùng đều thấp hơn định mức theo quy định của Bộ GDĐT; cơ cấu giáo viên giữa các môn học, cấp học chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu tại các địa phương, trường học.
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục phổ thông có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh lên lớp ở cấp Tiểu học và cấp THCS có chiều hướng gia tăng và cao hơn bình quân cả nước. Tuy vậy, tỷ lệ học sinh lên lớp cấp THPT của Vùng lại thấp nhất cả nước. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp THCS và cấp THPT đều thấp hơn so với quân cả nước.
Trong giai đoạn 2013 -2023, số học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia của vùng là 5.645 học sinh (đạt 53,3% tổng số thí sinh tham dự, chiếm 23,3% tổng số giải trong cả nước) và 84 giải tại Kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế (chiếm 23,3% tổng số giải của cả nước).
Quy mô đào tạo đại học và sau đại học tăng dần qua các năm, đứng thứ ba trong sáu vùng kinh tế - xã hội. Toàn vùng hiện có toàn vùng có 44 trường đại học. Bình quân hằng năm, có hơn 31.000 sinh viên và hơn 2.400 học viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng.
Chất lượng lao động của vùng ngày càng được cải thiện với tỷ lệ lao động có bằng cấp/chứng chỉ của vùng năm 2021 đạt 25,8%. Trong đó, tỷ lệ lao động lao động trong lĩnh vực kinh tế biển được đào tạo các trình độ đạt khoảng 68% (tăng 39,6% so với năm 2010). Tuy nhiên, tỷ lệ lao động có bằng cấp vẫn thấp hơn 0,3% so với mức bình quân chung của cả nước.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định một số mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030.
Cụ thể, nâng cao trình độ dân trí và thu nhập của người dân trong vùng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của các địa phương trong vùng và cả nước. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng cơ bản chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa.
Nâng cao chất lượng giáo dục, bao gồm giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực ngoại ngữ, tin học; cơ bản đáp ứng được nhu cầu nhân lực của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng; tăng cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao cho đồng bào, tạo điều kiện cho người dân học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.
Tập trung đầu tư cho giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển vùng. Nâng cao chất lượng hoạt động một số trường đại học lớn ở Vinh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Nha Trang trở thành những trung tâm đào tạo uy tín trong khu vực và thế giới.
Đến năm 2030, các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng không ngừng được nâng cao; khoảng cách về chất lượng giáo dục, đào tạo giữa các địa phương dần được thu hẹp và tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt khoảng 75%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt khoảng 35 - 40%.
CẦN SỚM CÓ QUY HOẠCH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG VÙNG
Tại Hội nghị, đại diện một số cơ sở giáo dục đại học trong vùng kiến nghị các Bộ, ngành nghiên cứu trên cơ sở Nghị quyết 26 có các chính sách tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp trong việc đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.
Ngoài ra, cần sớm có quy hoạch các cơ sở giáo dục đại học trong vùng, qua đó nâng cao tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT vào đại học - hiện nay tỷ lệ này của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đang thấp nhất cả nước.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có các đặc điểm khác với các vùng còn lại, do đó định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của vùng phải có điểm khác, điểm riêng.
Theo đó, đây là vùng đa dạng với 3 tiểu vùng rõ nét, vì vậy, ngoài liên kết vùng còn phải quan tâm đến liên kết tiểu vùng. Với một vùng có đường bờ biển dài, từ khóa “biển” phải được nhấn mạnh, tận dụng trong phát triển, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bởi khi kinh tế biển càng phát triển thì nhân lực cho kinh tế biển càng đòi hỏi cao hơn. Kinh tế biển, đảm bảo quốc phòng - an ninh biển phải trở thành nội dung nghiên cứu, đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.
Bộ trưởng cho rằng, giáo dục và đào tạo Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ phải tính đến yếu tố đa dạng này để vừa quan tâm phát triển giáo dục mũi nhọn, vừa tính đến công bằng trong giáo dục cho các vùng miền núi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng hải đảo.
Một số thách thức với giáo dục vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ là nâng cao chất lượng, công bằng giáo dục, thách thức từ sự phân bổ chưa đều về tỷ lệ ngoài công lập, thách thức khi dù là vùng giao lưu quốc tế thuận lợi nhưng quốc tế hóa trong giáo dục còn chưa tương xứng.
Về các giải pháp, Bộ trưởng nhấn mạnh tới việc tập trung quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng. Trong đó, 2 đại học vùng là Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng cần phát triển hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và mạnh của vùng trong thời gian sắp tới. Nghiên cứu để có giải pháp cho các trường đại học địa phương, các trường cao đẳng sư phạm.
Trong viêc quy hoạch, Bộ trưởng cũng đề nghị các địa phương quan tâm quy hoạch đảm bảo đất cho giáo dục mầm non, phổ thông.