Vườn Chuối kể chuyện nghìn năm

Ít có di tích nào ở Hà Nội mang độ sâu văn hóa rõ rệt như Vườn Chuối. Các tầng địa văn hóa xếp nối nhau, cho phép nhìn thấy sự chuyển động của con người qua thời gian: cách họ sống, làm việc, chôn cất người đã khuất và tạo dựng cộng đồng. Việc trưng bày chuyên đề tại Bảo tàng Hà Nội giúp công chúng lần đầu được tiếp cận kho tư liệu khảo cổ phong phú này một cách trực quan nhất.

Bức tranh “xuyên không” sống động

Khai quật năm 2024 – 2025, với diện tích hơn 6.000m² ở khu gò phía Tây, các nhà khảo cổ đã làm rõ cấu trúc cư trú, khu mộ táng, dấu tích sinh hoạt và kiến trúc nhà ở của cư dân Tiền Đông Sơn – Đông Sơn. Những phát hiện này, cùng hơn 10 tấn di vật gốm, hàng loạt vòng đá, rìu đá, đồ trang sức và dấu tích lò nấu đồng, đã khẳng định Vườn Chuối là một làng cổ có quá trình cư trú liên tục và có tổ chức từ thời Phùng Nguyên đến hậu Đông Sơn, kéo dài gần hai thiên niên kỷ.

Điều quan trọng hơn, Vườn Chuối giúp nhận diện tầng sâu của Hà Nội như một không gian văn hóa lâu bền. Hà Nội không hình thành từ một thời điểm cụ thể, mà là sự tích tụ, bồi đắp và kế tiếp của nhiều lớp cư dân, tư duy sống, tổ chức xã hội, kỹ thuật và tín ngưỡng. Căn nhà dài Đông Sơn được tìm thấy tại đây gợi nhớ những mô hình nhà dài vẫn tồn tại ở Tây Nguyên, chỉ ra sự liên tục văn hóa trong nội bộ cư dân Việt cổ. Bãi mộ tiền Đông Sơn với tục nhổ răng cửa phản ánh nhận thức về trưởng thành, về cộng đồng và về thân thể trong xã hội cổ đại. Những vòng đá còn nguyên trên di cốt gợi mở quan niệm rằng đối với cư dân xưa, cái chết không phải điểm dừng, mà là bước chuyển, và con người đi vào thế giới khác cùng địa vị và kỷ niệm đã gắn bó với họ.

Những lớp trầm tích đó, khi bước vào không gian trưng bày chuyên đề “Những khám phá khảo cổ từ Vườn Chuối” tại Bảo tàng Hà Nội đã được mềm hóa, làm giảm đi tính học thuật khô cứng bằng công nghệ trình chiếu 3D mapping, bằng những thước phim phỏng dựng đời sống cư dân cổ và các mô hình mô phỏng kiến trúc trực quan. Công chúng qua đó có thể hình dung được âm vang của một ngôi làng cổ từng hiện diện, phát triển và biến đổi trên đất Thăng Long.

Từ khảo cổ học đến phát huy giá trị văn hóa là một hành trình dài. Theo TS Trang Thanh Hiền (Đại học Mỹ thuật Việt Nam), nhiều năm qua chúng ta chú trọng nghiên cứu nhưng chưa thật sự đưa kết quả nghiên cứu trở lại với cộng đồng. Việc công bố rộng rãi phát hiện của Vườn Chuối và tổ chức trưng bày công phu tại Bảo tàng Hà Nội là bước chuyển quan trọng, tạo điều kiện để di sản không bị cất trong kho lưu trữ mà được nhìn thấy, bàn luận, cảm nhận và tiếp nhận. Tương tự, tại Hoàng thành Thăng Long, các nghiên cứu khảo cổ những năm gần đây đã được giới thiệu trực tiếp đến công chúng thay vì chỉ lưu hành trong giới chuyên môn. Di sản vì thế không còn là “địa hạt riêng” của giới nghiên cứu.

Khai thác di sản trong đời sống đương đại

Tính đến nay, Hà Nội là địa phương có số lượng di tích được xếp hạng nhiều nhất cả nước, với khoảng 5.922 di tích đã được kiểm kê, trong đó có 2.434 di tích được xếp hạng gồm 22 di tích quốc gia đặc biệt, hơn 1.200 di tích quốc gia và hơn 1.200 di tích cấp thành phố (Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, 2024). Bên cạnh hệ thống di sản vật thể đồ sộ, Hà Nội còn sở hữu gần 1.800 di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê, trải dài từ lễ hội truyền thống, tín ngưỡng dân gian, nghệ thuật trình diễn đến tri thức bản địa và các nghề thủ công truyền thống. Đây là mật độ di sản hiếm có, tạo nền tảng sâu dày cho bản sắc văn hóa Thăng Long – Hà Nội suốt chiều dài lịch sử.

Trong nhiều năm, di sản chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ bảo tồn, tức là giữ gìn, bảo vệ, hạn chế tác động. Nhưng hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế sáng tạo và công nghiệp văn hóa, tư duy quản lý di sản đã thay đổi: di sản không chỉ để lưu giữ, mà phải được “đánh thức”, tìm cách đưa di sản trở lại với cộng đồng, giúp nó trở thành một phần của đời sống văn hóa, giáo dục và du lịch.

Ngoài việc mở cửa cho khách tham quan vào ban ngày, nhiều di tích hiện đang được khai thác theo hướng trải nghiệm đêm. Những chương trình như Giải mã Hoàng thành ở Hoàng Thành Thăng Long, Đêm thiêng liêng ở Nhà tù Hỏa Lò, hay Ngọc Sơn – Đêm huyền bí không chỉ giúp tăng lượng khách (như Hoàng thành Thăng Long tăng gần gấp đôi lượng khách từ năm 2019 đến 2024, theo Báo cáo của Sở Du lịch Hà Nội), mà quan trọng hơn, chúng tạo ra không gian tiếp nhận di sản bằng trải nghiệm sống động, khiến những câu chuyện của quá khứ được nối gần với hiện tại, và tiếp tục kiến tạo những giá trị văn hóa, kinh tế mới.

Một yếu tố khác góp phần đưa di sản vào đời sống chính là làng nghề truyền thống. Hà Nội hiện có hơn 130 làng nghề, trong đó 47 làng nghề được công nhận cấp thành phố, như Bát Tràng, Vạn Phúc, Quất Động, Nghi Tàm. Vượt ra khỏi khuôn khổ của một nơi sản xuất hàng hóa, đây chính là những không gian ký ức, là nơi truyền nghề, nơi chất liệu văn hóa được tái sinh qua từng đôi tay thợ thủ công. Làng nghề được kết nối vào các tuyến du lịch và chương trình trải nghiệm như học làm gốm, tham quan lò nung hay tìm hiểu quy trình nhuộm lụa sẽ vừa duy trì được nghề, vừa tạo ra sinh kế bền vững cho cộng đồng địa phương. Di sản, vì thế, không chỉ là câu chuyện của quá khứ, mà là cơ hội phát triển kinh tế hiện tại.

Tuy nhiên, sự khai thác này cần đi kèm nguyên tắc. Như TS Phạm Cao Quý (Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL) nhấn mạnh, di sản chỉ phát huy giá trị khi được khai thác đúng bản chất, tôn trọng ngữ cảnh văn hóa và hệ thống biểu tượng của nó. Kể chuyện di sản không phải là phóng đại, càng không phải cắt xén để chiều chuộng thị hiếu nhanh. “Mặc sai áo cho di sản” sẽ khiến di sản bị hiểu sai, làm nhạt chiều sâu văn hóa và thậm chí gây tổn hại đến ký ức cộng đồng.

CTV Hạ Anh/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/van-hoa/vuon-chuoi-ke-chuyen-nghin-nam-post1246575.vov