World Bank cảnh báo dư địa chính sách tiền tệ Việt Nam suy giảm
Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB Việt Nam) cho biết hiện nay lãi suất chính sách thực đã gần bằng 0, khả năng hấp thụ rủi ro của hệ thống ngân hàng đang suy giảm khiến chính sách tiền tệ cạn dư địa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế…

Sáng 8/9, WB Việt Nam công bố Báo cáo Điểm lại, cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam và triển vọng trong những tháng tới.
Theo WB, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục duy trì lập trường chính sách tiền tệ nới lỏng, giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu ở mức thấp kỷ lục, lần lượt là 4,5%/năm và 3%/năm kể từ tháng 6/2023. Việc nới lỏng này nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2024–2025, trong bối cảnh lãi suất chính sách thực gần bằng 0.
Chuyên gia WB chỉ ra việc đẩy mạnh cho vay dẫn đến thu hẹp thanh khoản toàn hệ thống, đẩy tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi vượt 100% tại nhiều ngân hàng – kể cả các ngân hàng thương mại lớn. Tỷ lệ tín dụng trên GDP ước tính đạt 134% vào cuối năm 2024 – tăng.
(Nguồn: WB Việt Nam)
Bên cạnh chính sách lãi suất, Ngân hàng Nhà nước triển khai đồng thời nhiều công cụ khác, bao gồm các nghiệp vụ thị trường mở (repo và phát hành tín phiếu), quy định trần lãi suất tiền gửi và cho vay, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng cho các ngân hàng thương mại, cũng như can thiệp trực tiếp trên thị trường ngoại hối.

Kết quả là tăng trưởng tín dụng đạt 18,1% trong 6 tháng đầu năm 2025 (so với cùng kỳ 2024), vượt xa mục tiêu 16% mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. Đà tăng mạnh này chủ yếu nhờ việc phân bổ sớm hạn mức tín dụng cho các ngân hàng ngay từ đầu năm. Nguồn tín dụng chủ yếu chảy vào các lĩnh vực bất động sản, chế biến – chế tạo và thương mại.
CẢNH BÁO NỢ XẤU TĂNG MẠNH TRONG TRUNG HẠN
Các chuyên gia WB chỉ ra việc đẩy mạnh cho vay đã làm thanh khoản toàn hệ thống bị thu hẹp rõ rệt, đẩy tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi vượt 100% tại nhiều ngân hàng – kể cả các ngân hàng thương mại lớn – buộc các tổ chức tín dụng phải tìm kiếm nguồn vốn thay thế. Tỷ lệ tín dụng trên GDP ước tính đạt 134% vào cuối năm 2024 – tăng mạnh so với mức 90% của năm 2015.
Lũy kế 6 tháng năm 2025, các ngân hàng đã phát hành gần 177 nghìn tỷ đồng trái phiếu (tương đương 4,5 tỷ USD), gấp 2,4 lần so với cùng kỳ năm 2024, chiếm 77% tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong nửa đầu năm 2025.
Thông tư 02/2023 hết hiệu lực vào tháng 12/2024 sẽ buộc các ngân hàng phải ghi nhận rủi ro đối với các khoản nợ được tái cơ cấu, khiến nợ xấu dự kiến tăng trong năm 2025. Ngoài ra, việc nâng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng có thể làm suy giảm chất lượng tín dụng, đặc biệt nếu các ngân hàng nới lỏng tiêu chuẩn cho vay. Đồng thời, nếu rủi ro được quản lý chủ yếu dựa trên tài sản thế chấp, tỷ lệ dự phòng sẽ giảm. Tỷ lệ dự phòng rủi ro/nợ xấu đã giảm gần một nửa trong ba năm qua, cho thấy khả năng hấp thụ tổn thất của hệ thống ngân hàng đang suy yếu.
(Báo cáo Điểm lại tháng 9/2025 của WB)
WB khuyến cáo dù chất lượng tài sản của các ngân hàng hiện vẫn tương đối ổn định nhưng sẽ có nhiều rủi ro tiềm ẩn liên quan đến tái cơ cấu nợ, kéo dài thời hạn trả nợ và suy giảm tỷ lệ dự phòng rủi ro.
Tỷ lệ nợ xấu tại 27 ngân hàng thương mại lớn tăng từ 3,6% (quý 4/2024) lên khoảng 3,8% (quý 1/2025). Nợ xấu trên toàn hệ thống (tính trên bảng cân đối kế toán) cũng tăng từ 5% năm 2024 lên 5,3% vào tháng 2/2025. Nếu tính cả nợ xấu tiềm tàng và nợ chuyển về Công ty Quản lý tài sản (VAMC), tổng nợ xấu điều chỉnh có thể lên đến 6,6% vào cuối năm 2024.

Việc Thông tư 02/2023 hết hiệu lực vào tháng 12/2024 buộc các ngân hàng phải ghi nhận rủi ro thực tế đối với các khoản nợ đã được cơ cấu lại, từ đó làm tăng nợ xấu trong năm 2025. Đồng thời, việc nâng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng có thể khiến tiêu chuẩn cho vay bị nới lỏng, làm gia tăng nợ xấu mới trong trung hạn.
Ngoài ra, WB cho biết tỷ lệ dự phòng rủi ro/nợ xấu đã giảm gần một nửa trong 3 năm qua, cho thấy khả năng hấp thụ tổn thất của hệ thống ngân hàng đang suy giảm đáng kể.
XOAY XỞ VỚI ÁP LỰC TỶ GIÁ
Tỷ giá VND/USD tăng lên mức 26.057 đồng/USD vào cuối tháng 6/2025 – tương ứng mức mất giá 2,8% trong nửa đầu năm 2025 so với cùng kỳ. Mức mất giá này thấp hơn so với mức 4,4% trong cùng kỳ năm 2024.
Đáng chú ý, đồng VND mất giá mạnh trong bối cảnh đồng USD trên thị trường quốc tế cũng suy yếu (6 tháng đầu năm 2025, chỉ số DXY giảm 8,95%), trong khi nhiều đồng tiền châu Á khác tăng giá. Điều này cho thấy áp lực giảm giá VND chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại, đặc biệt là nhu cầu trả nợ ngoại tệ (USD) tăng mạnh từ cả khu vực công và tư nhân.
Áp lực tỷ giá đến không hoàn toàn do bên ngoài mà chủ yếu từ nội tại. Đó là nhu cầu trả nợ ngoại tệ khu vực công và tư tăng, Kho bạc Nhà nước liên tục mua vào chi trả nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ.
(Nguồn: WB Việt Nam)
Trong 5 tháng đầu năm 2025, Kho bạc Nhà nước đã thực hiện mua vào tổng cộng 1,6 tỷ USD phục vụ nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ – cao hơn cả năm 2023 và bằng 86% lượng mua của cả năm 2024.
Để đối phó với áp lực này, trong nửa đầu năm 2025, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá trung tâm tăng 3,1% (so với cùng kỳ), bao gồm một đợt điều chỉnh mạnh 2,2% trong tháng 5/2025 – mức điều chỉnh lớn nhất kể từ tháng 12/2022. Việc nâng tỷ giá trung tâm đồng thời mở rộng biên độ dao động +/-5%, tạo dư địa cho thị trường điều chỉnh linh hoạt hơn.

Ngoài ra, WB cho biết Ngân hàng Nhà nước đã bán ra khoảng 1 tỷ USD dự trữ ngoại hối, khiến quy mô dự trữ giảm từ 79,2 tỷ USD (tháng 12/2024) xuống còn 78,1 tỷ USD (tháng 3/2025), tương đương khoảng 2,4 tháng nhập khẩu.
CẦN ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH CƠ CẤU KINH TẾ
Trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ đang thu hẹp do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực tỷ giá, WB khuyến nghị chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong thúc đẩy tăng trưởng.
Nợ công thấp của Việt Nam là cơ hội để tăng đầu tư, đặc biệt vào các lĩnh vực thiết yếu như năng lượng, logistics và hạ tầng giao thông.
Tuy nhiên, quản lý đầu tư công cần bảo đảm hiệu suất sử dụng vốn, giám sát chặt chẽ rủi ro và an toàn nợ.
WB tiếp tục khuyến nghị Việt Nam tăng cường năng lực chống chịu của khu vực tài chính bao gồm các giải pháp: (1) cải thiện tỷ lệ an toàn vốn và nâng cao năng lực giám sát an toàn hệ thống ngân hàng; (2) tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý rủi ro hệ thống, đặc biệt là khả năng ứng phó khủng hoảng và giám sát tập đoàn tài chính lớn.
Đặc biệt, quá trình cải cách cơ cấu kinh tế phải được đẩy nhanh hơn nữa, tập trung vào các giải pháp sau.
Một, cải thiện hiệu quả cung cấp dịch vụ công thiết yếu.
Hai, thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng cường vốn nhân lực và đa dạng hóa thương mại nhằm giảm thiểu rủi ro từ bất định toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn.
Ba, thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Bốn, tăng cường hội nhập của các doanh nghiệp tư nhân trong nước vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Năm, khuyến khích ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh.