Xác định lại mục tiêu giáo dục: 'Học để làm gì?'
Trong các diễn ngôn về giáo dục ở Việt Nam, dễ nhận thấy hầu hết những đề xuất canh tân và ý kiến tranh luận đều chủ yếu tập trung vào phương pháp giảng dạy, nội dung chương trình học cũng như việc thi cử, kiểm tra và đánh giá.
Rất ít sự quan tâm của các nhà làm chính sách giáo dục, các nhà quản lý giáo dục, các nhà giáo dục và dư luận xã hội được dành cho việc học.
Là một nhà giáo, tôi cho rằng nếu mục đích của việc dạy là sự học của người học thì cần phải quan tâm đến việc học như một ưu tiên hàng đầu. Dạy mà không dựa trên hiểu biết về việc học và mục đích của việc học thì chẳng khác gì bắn một mũi tên vào không gian vu vơ, không thể có những tác động tích cực đến việc học.
Với suy nghĩ như vậy, trong bài báo này tôi xin đưa ra một câu trả lời mới cho một câu hỏi rất cũ: Học để làm gì?
Thời đại đã thay đổi rất nhiều, cho nên cũng cần phải có những thay đổi trong việc xác định mục đích của việc học, làm cơ sở cho mọi thảo luận về đổi mới giáo dục khi đất nước đang chuẩn bị đi vào kỷ nguyên mới của dân tộc. Thay vì tranh luận về những triết lý giáo dục trừu tượng, chúng ta hãy bắt đầu bằng câu hỏi “Học để làm gì?” cho mọi chủ trương đổi mới giáo dục.

Mục tiêu của việc học là phát triển sự an vui trong đời sống nội tâm của người học bằng vốn tri thức. Ảnh: Hoàng Hà
Lịch sử giáo dục là lịch sử của những lý thuyết đối nghịch. Vì vậy, chính sách giáo dục thường bị chi phối bởi những quan điểm cực đoan, lúc thì coi trọng quá mức việc ghi nhớ kiến thức, lúc thì đề cao việc phát triển năng lực, kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Từ khi đất nước mở cửa ra thế giới, cùng với những tư tưởng mới về phát triển kinh tế, những mô hình, những đường hướng và phương pháp giáo dục của thế giới cũng ùa vào nền giáo dục nước nhà và được chúng ta hân hoan đón nhận mà không quan tâm đến những ý tưởng đó có phù hợp với văn hóa của ta hay không.
Do vậy, như thực tiễn đổi mới giáo dục trong nhiều năm qua ở nước ta cho thấy, ý tưởng, mô hình, lý thuyết thì mới nhưng lại được sử dụng cho những mục đích lỗi thời.
Dù thừa nhận hay không thì tư tưởng Khổng giáo coi việc học như một cứu cánh để đỗ đạt, coi bằng cấp hay điểm số là niềm tự hào và vinh quang cho cá nhân, gia đình và dòng họ, học để thăng tiến trên con đường công danh sự nghiệp vẫn còn ăn sâu trong tâm lý người Việt Nam — kể cả phụ huynh và các nhà giáo dục, các nhà quản lý giáo dục — cho dù thực tế cuộc sống hôm nay đã khác xa ngày trước.
Bước vào thế kỷ 21 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), quan niệm truyền thống “tri thức là sức mạnh” không còn phù hợp. Với sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là của trí thông minh nhân tạo, ai cũng có thể truy cập vào tri thức của mọi vấn đề, mọi ngành mà cá nhân cần và có thể giải đáp cho hầu hết các câu hỏi của cá nhân một cách thuận tiện và nhanh chóng.
Cá nhân không cần phải dùi mài kinh sử như ngày trước vì tri thức luôn có sẵn nhờ Internet và công nghệ số; thậm chí con người hiện đang ở trong cuộc khủng hoảng thông tin.
Điều quan trọng là cá nhân biết hợp nhất tri thức với thực hành qua các hoạt động như phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, biết cách đánh giá kiến thức từ các góc nhìn khác nhau, từ đó kiến tạo lại kiến thức có sẵn của người khác thành kiến thức của mình một cách sáng tạo. Đấy mới chính là sức mạnh của tri thức trong thời đại công nghiệp 4.0 và xã hội 5.0.
Mặc dù tri thức của nhân loại vẫn là nội dung giáo dục không thể bỏ qua, nhưng chính sự trải nghiệm với tri thức mới hữu ích cho sự trưởng thành về thể chất, tri nhận, xúc cảm và tinh thần. Đó là sự trưởng thành giúp con người mạnh mẽ hơn chính mình của ngày hôm qua — một sự mạnh mẽ từ nội tâm để không bị dòng xoáy của cuộc đời cuốn đi ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.
Để nền giáo dục của chúng ta vừa giữ được sự gắn kết với truyền thống văn hóa của dân tộc vừa đủ sức ra biển lớn hội nhập với thế giới, tôi cho rằng chúng ta hãy đi tìm câu trả lời mới cho câu hỏi cũ được John Dewey, một triết gia giáo dục người Mỹ, đã đặt ra từ đầu thế kỷ XX: Học để làm gì? — để xác định lại mục tiêu của việc học.
Phải nói ngay rằng mục đích nguyên thủy của việc học là nhằm thỏa mãn sự khao khát tri thức của con người. Dần dần, do chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần ba (3.0) và tư tưởng tân tự do trong kinh tế, việc học bị chuẩn hóa với mục đích nhào nặn con người rập khuôn theo những chuẩn nhất định, với niềm tin rằng điều đó sẽ giúp họ có việc làm, được lương bổng cao trong một thị trường lao động luôn biến động và mang tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
Từ đó, thay vì mục tiêu đưa con người vào những hành trình mở mang tâm trí thông qua việc thực học, học để biết sống và sống hạnh phúc bằng những hiểu biết của mình và với những giá trị đích thực của mình, giáo dục lại dẫn dắt con người vào mê lộ của những chuẩn được áp đặt, được dùng như một thước đo chung cho sự tiến bộ trong quá trình học của mọi người học bất chấp sự khác biệt của cá nhân người học với tư cách là một con người.
Một nền giáo dục lấy việc đạt được những kết quả hay thành tích thực dụng như điểm số, bằng cấp theo mong muốn, sự cưỡng bức của người khác áp đặt cho người học làm mục đích của việc học đều không thể mang lại hạnh phúc và niềm vui cho người học.
Khi người học thấy việc học chỉ là áp lực ganh đua về điểm số thuần túy mà không giúp họ thấy an vui hơn, biết sống hạnh phúc hơn, ý nghĩa hơn, không làm cho họ thấy học là niềm vui sáng tạo thì việc học chỉ mang tính đối phó và hình thức. Tâm bất an thì tuệ làm sao bừng sáng được?
Trong một thế giới toàn cầu hóa luôn biến động và thay đổi một cách khôn lường như thế giới của thế kỷ 21, thì học phải là quá trình người học tự nhìn lại bản thân mình để thấy cái mình còn thiếu, cái mình cần biết mà chưa biết hay biết chưa đủ, chưa sâu và chưa đa chiều.
Bất kể kinh, pháp hay lý thuyết gì của ai thì chúng chỉ có ý nghĩa thông qua sự tự nhìn nhận lại bản thân của mỗi cá nhân người học.
Nói cách khác, mục tiêu của việc học là phát triển sự an vui trong đời sống nội tâm của người học bằng vốn tri thức của cá nhân, để họ ham mê mở rộng hiểu biết mà không cần áp lực; để biết sống một cuộc sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc với những phẩm giá đích thực của mình; sống “đẹp” hay sống nhân ái với người khác và với thiên nhiên.
Khổng Tử nói trong Luận ngữ rằng “người biết học không bằng người thích học, người thích học không bằng người coi học là niềm vui”.
Khi việc học thực sự là một niềm vui, người học sẽ nhận ra càng học càng thấy mình cần học hơn nữa, càng học càng thấy sự đa chiều của tri thức, và khi đó việc học sẽ đem lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc sống của cá nhân.
Nếu việc học trong nhà trường thực sự là một sự trải nghiệm để mỗi cá nhân rèn luyện đức hiếu tri, trí tuệ, “biết sống đẹp” và “sống hạnh phúc” trong dòng đời bất định với những phẩm giá đích thực của mình và bằng vốn tri thức không ngừng được bổ sung và điều chỉnh của mình, thì việc học sẽ trở nên tự giác, sáng tạo và đam mê. Vì người học sẽ nhận ra rằng càng học, họ càng có một đời sống trí tuệ và tinh thần phong phú và sâu sắc hơn.
Sống hạnh phúc là biết giữ thân – tâm khỏe mạnh bằng sự hài hòa giữa xúc cảm, trí tuệ và sự tỉnh thức. Khi đã biết sống “tốt đời, đẹp đạo”, biết sống hạnh phúc, người học sẽ phát triển tâm trí khai phóng để khi bước vào cuộc sống nghề nghiệp, họ mang theo tâm trí khai phóng đó làm động lực cho việc kiến tạo những ý tưởng mới, những tri thức mới giúp đất nước phát triển bền vững một nền khoa học và công nghệ đủ sức cạnh tranh toàn cầu, làm bệ phóng cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới — kỷ nguyên của thịnh vượng và hạnh phúc.
Khoa học và công nghệ chỉ phát triển ở nơi có nền giáo dục giúp người học tìm thấy hạnh phúc nhờ sự tu dưỡng nhân tâm và trí tuệ mang lại qua việc tham gia vào quá trình học một cách tự giác, với một niềm đam mê vì khát khao đi tìm những chân trời mới của tri thức để thay đổi chính mình.
Các nhà trường hãy thay khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” bằng khẩu hiệu “Học để tự soi lại mình, để thấy mình cần học hơn nữa và để sống đẹp, sống hạnh phúc”.
Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/xac-dinh-lai-muc-tieu-giao-duc-hoc-de-lam-gi-2463679.html











