Xanh hóa khu công nghiệp TP.HCM: Cần làm ngay bây giờ
TP.HCM quyết tâm xanh hóa các khu công nghiệp, gỡ từng nút thắt để đạt mục tiêu càng sớm càng tốt.
Trước mệnh lệnh cấp bách phải chuyển đổi khu công nghiệp (KCN) sang mô hình sinh thái để giữ vững vị thế công nghiệp và thu hút đầu tư công nghệ cao, nhiều chuyên gia thống nhất cao rằng việc hoàn thiện nhanh chóng khung pháp lý cùng các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể, thiết thực là giải pháp then chốt giúp TP.HCM vượt qua những rào cản hiện hữu.
Mệnh lệnh cấp bách phải chuyển đổi
TP.HCM, đầu tàu kinh tế cả nước, đang đứng trước một ngã rẽ quan trọng trong phát triển công nghiệp. Không chỉ là động lực tăng trưởng mới, việc chuyển đổi nền công nghiệp sang hướng công nghệ cao, hiện đại và bền vững đang trở thành vấn đề mang tính khẩn cấp.
Bà Nguyễn Vân Trang, Trưởng nhóm Đông Nam Á Trung tâm Climateworks (ĐH Monash, Úc), nhấn mạnh: “Việc chuyển đổi không chỉ giúp TP.HCM không tụt hậu mà còn là yếu tố sống còn. Nhiều nhà đầu tư đang có xu hướng chuyển nguồn vốn về TP.HCM. Tôi kỳ vọng đến năm 2050, số lượng lớn lao động trong nền kinh tế xanh sẽ tập trung tại Việt Nam và TP.HCM là điểm đến ưu tiên”.

Khu công nghiệp Hiệp Phước áp dụng nhiều giải pháp năng lượng sạch, thiết kế đồng bộ theo tiêu chí khu công nghiệp sinh thái. Ảnh: CTV
Quyết tâm kiến tạo khu công nghiệp sinh thái của TP.HCM là rất lớn, được kỳ vọng sẽ nâng tầm vị thế và mở ra cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư bền vững, đặc biệt trong bối cảnh các nhà đầu tư quốc tế ngày càng quan tâm đến các tiêu chí ESG (môi trường - xã hội - quản trị).
Tuy nhiên, con đường xanh hóa còn rất nhiều thách thức. Ông Giang Ngọc Phương, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP KCN Hiệp Phước, chia sẻ tại nhiều cuộc họp rằng do thiếu định hướng phát triển KCN sinh thái ngay từ đầu nên việc chuyển đổi từ mô hình truyền thống vô cùng khó khăn. Ngay tại Hiệp Phước, dù đã nỗ lực nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần gỡ rối để các doanh nghiệp dễ dàng cộng sinh, hợp tác hiệu quả, tận dụng tài nguyên của nhau.
Nhiều chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu cấp bách phải rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến khu công nghiệp sinh thái, lấp đầy các khoảng trống về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Một ví dụ điển hình là việc trao đổi chất thải sản xuất. Quy định hiện hành yêu cầu chất thải phải qua một đơn vị xử lý có chức năng trước khi đến với doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng. “Quy định này khiến việc trao đổi, xử lý chất thải mất nhiều thời gian, làm giảm tính hiệu quả của mô hình cộng sinh công nghiệp” - ông Phương phân tích.
Tương tự, lãnh đạo Khu công nghiệp Deep C công nhận tính hấp dẫn của khu công nghiệp sinh thái trong thu hút đầu tư nhưng cũng thừa nhận quá trình này rất gian nan và pháp luật chưa theo kịp tốc độ phát triển. Câu chuyện Deep C mất ba năm chỉ để xin giấy phép thi công lắp đặt cột điện gió vì chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể trong khu công nghiệp là một minh chứng rõ rệt cho sự bất cập này.
TS Scott McDonald, chuyên gia chuỗi cung ứng và logistics từ ĐH RMIT Việt Nam, chỉ ra rằng TP.HCM phải đối mặt với bài toán khó là cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Quá trình chuyển đổi đòi hỏi nguồn lực tài chính khổng lồ cho các hệ thống năng lượng tái tạo, tái chế nước, quản lý chất thải.
Hơn nữa, việc thuyết phục các doanh nghiệp tham gia vào quá trình chuyển đổi cũng là một rào cản lớn. “Dù khung pháp lý đã được thiết lập, nhiều nhà đầu tư vẫn chờ đợi các ưu đãi cụ thể hơn để thấy rõ lợi ích kinh tế từ việc chuyển đổi” - TS McDonald nhận định.
Tiêu chuẩn khu công nghiệp sinh thái theo Nghị định 35/2022/NĐ-CP phải tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về môi trường và lao động. Về hạ tầng, yêu cầu bắt buộc là đầu tư đồng bộ, trong đó tối thiểu 20% diện tích đất công nghiệp dành cho cây xanh, giao thông và các công trình hạ tầng dùng chung khác, đảm bảo không gian làm việc xanh, sạch.
Yếu tố “sinh thái” cốt lõi nằm ở hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP). Nghị định quy định ít nhất 10% doanh nghiệp trong khu công nghiệp phải áp dụng RECP hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, nước, nguyên vật liệu. Quan trọng không kém là phải hình thành ít nhất một liên kết cộng sinh công nghiệp, nơi các doanh nghiệp hợp tác tuần hoàn, chia sẻ, tái sử dụng tài nguyên hoặc chất thải của nhau.
TP.HCM tìm mô hình khu công nghiệp sinh thái phù hợp
Trước những thách thức trên, việc lựa chọn mô hình khu công nghiệp sinh thái phù hợp với điều kiện đặc thù của TP.HCM là yếu tố then chốt. TS McDonald đã đưa ra những gợi ý đáng giá, dựa trên kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh địa phương thay vì áp dụng máy móc các hình mẫu thành công như Kalundborg (Đan Mạch).

Công ty TNHH Giấy Xuân Mai (Khu công nghiệp Hiệp Phước) đã đầu tư khoảng 5 triệu USD cho hệ thống xử lý nước thải. Ảnh: CTV
Một hướng đi tiềm năng là mô hình phục hồi tài nguyên, tương tự cách Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền (TP Hải Phòng) đang triển khai. Mô hình này tập trung vào kinh tế tuần hoàn, biến chất thải, đặc biệt là lượng rác thải đô thị khổng lồ của TP.HCM thành nguồn tài nguyên có giá trị cho công nghiệp. Cách tiếp cận này không chỉ giải quyết vấn đề môi trường mà còn tạo ra lợi ích kinh tế, phù hợp với định hướng tận dụng thế mạnh quốc gia.
Một mô hình khác cũng rất phù hợp với tình trạng ngập úng và áp lực nguồn nước của TP là mô hình tiết kiệm nước, học hỏi từ KCN Amata (Đồng Nai). Việc ưu tiên các giải pháp tái chế, giảm tiêu thụ nước trong quy trình sản xuất công nghiệp sẽ giảm đáng kể áp lực lên hệ thống cấp thoát nước và ô nhiễm nguồn nước.
TS McDonald cũng đề xuất mô hình cộng sinh đô thị - công nghiệp như cách KCN Hiệp Phước đang vận hành nhằm tạo sự kết nối giá trị giữa khu công nghiệp và khu đô thị lân cận. Giải pháp cụ thể có thể là tận dụng nhiệt thải từ nhà máy cho các tòa nhà thương mại hoặc biến chất thải hữu cơ đô thị thành nguyên liệu công nghiệp. Quan điểm cốt lõi là KCN không nên tồn tại như những “hòn đảo” biệt lập trong lòng đô thị.
Trong bối cảnh TP.HCM có nhiều KCN hiện hữu với hạ tầng sẵn có và hạn chế về không gian để xây mới, mô hình chuyển đổi theo giai đoạn như KCN Hòa Khánh (TP Đà Nẵng) là một cách tiếp cận hợp lý. Mô hình này tập trung vào việc cải tạo, nâng cấp dần các KCN truyền thống, tích hợp các yếu tố sinh thái một cách linh hoạt, phù hợp với nguồn lực và điều kiện thực tế.
TS McDonald khẳng định KCN sinh thái là cốt lõi của một đô thị thông minh bền vững, nơi các hệ thống giám sát số, tối ưu hóa tài nguyên và hạ tầng kết nối thể hiện rõ các nguyên lý về hiệu quả và liên kết. Sở hữu các KCN đạt chuẩn xanh cũng là điều kiện tiên quyết để thu hút nhiều tập đoàn công nghệ cao toàn cầu, vốn ngày càng có những yêu cầu khắt khe về môi trường trong chuỗi cung ứng của họ.
Sáu bài học quốc tế cho TP.HCM
Từ kinh nghiệm quốc tế, TP.HCM có thể rút ra nhiều bài học quý trong phát triển KCN sinh thái. Trước hết, cần thúc đẩy các mạng lưới hợp tác giữa các doanh nghiệp để chia sẻ tài nguyên, giảm chi phí và tăng hiệu quả thay vì chỉ tập trung vào cạnh tranh.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ cần được xây dựng sớm với các tiêu chí cụ thể. TP.HCM nên xem xét các ưu đãi riêng cho KCN sinh thái như khấu hao nhanh cho công nghệ môi trường, giảm phí sử dụng đất cho doanh nghiệp áp dụng hệ thống bền vững và quy trình cấp phép nhanh cho các đơn vị đạt chuẩn xanh.
Thứ ba, nên sử dụng các hệ thống chứng nhận quốc tế như LEED hoặc EDGE để làm khung đánh giá thay vì phát triển tiêu chí riêng từ đầu, tránh lãng phí nguồn lực.
Thứ tư, cần có chiến lược chuyển đổi theo giai đoạn. Việc bắt đầu bằng các dự án thí điểm, dễ chứng minh hiệu quả sẽ tạo nền tảng để mở rộng mô hình KCN sinh thái một cách bền vững.
Thứ năm, sự tham gia thực chất của chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng và tổ chức quốc tế là yếu tố then chốt. Các dự án thiếu đồng thuận thường không bền vững.
Cuối cùng, cần định lượng đầy đủ lợi ích kinh tế - môi trường để minh chứng hiệu quả và thu hút đầu tư lâu dài.
TS SCOTT MCDONALD, chuyên gia chuỗi cung ứng và logistics
ĐH RMIT Việt Nam
Từ chính sách đến hành động cụ thể
Để biến tiềm năng thành hiện thực, TP.HCM cần một chiến lược tổng thể và những giải pháp đồng bộ, quyết liệt, trong đó hoàn thiện thể chế và chính sách được xem là bước đi tiên quyết. Nhiều chuyên gia khác nhấn mạnh yêu cầu cấp bách phải rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến KCN sinh thái, lấp đầy các khoảng trống về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Song song đó, TP cần xây dựng các cơ chế ưu đãi tài chính cụ thể, hấp dẫn như giảm thuế, phí sử dụng đất, ưu đãi giá năng lượng, nước sạch và đơn giản hóa thủ tục cấp phép để tạo động lực thực sự cho doanh nghiệp tham gia chuyển đổi xanh. GS-TS Keun Lee, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn quốc gia Hàn Quốc, cũng đồng tình về sự cần thiết của một chiến lược và chính sách công nghiệp phù hợp, thể hiện tầm nhìn dài hạn và tư duy cởi mở.

Khoảng 80%-90% các công đoạn sản xuất của Công ty TNHH Giấy Xuân Mai đã đạt tiêu chuẩn xanh hóa. Ảnh: CTV
Theo GS-TS Keun Lee, bên cạnh chính sách, yếu tố con người và năng lực thực thi đóng vai trò then chốt. Việc đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý kỹ thuật ở các cấp là cần thiết để họ hiểu rõ và xử lý hiệu quả yêu cầu đặc thù của KCN sinh thái. Đầu tư cho nhân lực là yếu tố sống còn để Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng có thể thoát bẫy thu nhập trung bình và làm chủ công nghệ mới.
“TP cần phát huy thế mạnh địa phương thông qua chế biến sâu nông sản và chủ động tiếp thu, làm chủ công nghệ từ nguồn vốn FDI, song song với việc xây dựng các thương hiệu và doanh nghiệp nội địa đủ mạnh để giảm sự phụ thuộc” - GS-TS Keun Lee gợi ý.
Góp ý thêm, TS McDonald khuyến nghị TP.HCM nên bắt đầu bằng các dự án thí điểm tại một số KCN có điều kiện thuận lợi và sự sẵn sàng tham gia của doanh nghiệp. Kết quả từ các dự án này cần được đánh giá kỹ lưỡng trước khi xây dựng lộ trình nhân rộng. Đồng thời, việc thực hiện đánh giá hiệu quả sử dụng tài nguyên trên toàn hệ thống KCN sẽ giúp nhận diện các cơ hội cộng sinh công nghiệp tiềm năng.
“Việc ưu tiên nâng cấp hạ tầng cốt lõi trong các KCN theo hướng hiệu quả về kinh tế và môi trường như hệ thống tái chế nước, phát triển năng lượng tái tạo tại chỗ, hệ thống xử lý chất thải tập trung cũng là một giải pháp nền tảng. Tích hợp các hệ thống giám sát thông minh sẽ giúp tối ưu hóa vận hành và liên tục cải tiến quy trình. Học hỏi kinh nghiệm quốc tế thông qua hợp tác, trao đổi và phát triển một hệ thống chứng nhận chuyển đổi xanh phù hợp với bối cảnh Việt Nam cũng là những bước đi quan trọng” - TS McDonald chia sẻ.
Cuối cùng, để huy động sự tham gia của tất cả các bên liên quan, TS McDonald nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một kịch bản chuyển đổi hấp dẫn, truyền thông mạnh mẽ về lợi ích đa chiều của KCN sinh thái từ kinh tế, môi trường đến xã hội.
Cuộc cách mạng xanh hóa KCN tại TP.HCM chắc chắn còn nhiều gian nan song với những lợi thế sẵn có và sự đồng hành, hiến kế từ các chuyên gia, TP.HCM hoàn toàn có thể vượt qua thách thức, biến các KCN thành động lực tăng trưởng xanh, bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đô thị thông minh và nâng tầm vị thế trên trường quốc tế.•
Nguồn PLO: https://plo.vn/xanh-hoa-khu-cong-nghiep-tphcm-can-lam-ngay-bay-gio-post847374.html