Xây dựng hệ thống thủy lợi thích ứng với biến đổi khí hậu
HNN - Mưa lũ dồn dập không chỉ gây thiệt hại lớn về hạ tầng thủy lợi mà còn tác động trực tiếp đến sinh kế của hàng nghìn hộ dân. Làm thế nào để ứng phó hiệu quả? Xung quanh vấn đề này, Huế ngày nay Cuối tuần đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Văn Hòa, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi và Biến đổi khí hậu TP. Huế.

Ông Đặng Văn Hòa, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi và Biến đổi khí hậu TP. Huế
Sau chuỗi mưa lũ lịch sử vừa qua, ông đánh giá mức độ thiệt hại, hư hỏng của hệ thống hạ tầng thủy lợi trên địa bàn TP. Huế như thế nào? Đâu là những điểm yếu bộc lộ rõ nhất qua thực tế thiên tai?
Có thể nói, đợt mưa lũ đặc biệt lớn vừa qua đã bộc lộ rất rõ mức độ tổn thương của hệ thống hạ tầng thủy lợi trên địa bàn thành phố. Tổng thiệt hại riêng lĩnh vực thủy lợi ước khoảng 1.748 tỷ đồng, phản ánh áp lực ngày càng nặng nề mà thiên tai và biến đổi khí hậu đang đặt lên hệ thống công trình vốn được xây dựng từ nhiều giai đoạn khác nhau.
Các tuyến đê bao nội đồng, đê ven phá, đê ven sông và hệ thống các công trình thủy lợi nội đồng đã xuống cấp theo thời gian, trong khi cường độ và tần suất mưa lũ lại ngày càng gia tăng, diễn biến nhanh và khó lường. Thực tế, đã có hơn 15km bờ sông bị sạt lở, gần 7km bờ biển bị xâm thực nghiêm trọng. Nhiều đoạn còn xâm thực sâu vào đất liền, đe dọa trực tiếp đến nhà cửa, đất sản xuất và làm ảnh hưởng đến các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu khác.
Bên cạnh đó, nhiều đập dâng, trạm bơm, kênh mương, cống thủy lợi bị bồi lấp, hư hỏng như cống lấy nước, đường quản lý, một số đoạn kênh mương, sân hạ lưu tràn xả lũ và các hạng mục phụ trợ khác. Nếu không sửa chữa kịp thời sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm tuổi thọ công trình.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Huế đang điều chỉnh như thế nào trong việc đầu tư, sửa chữa hệ thống thủy lợi để vừa chống chịu thiên tai, vừa phục vụ sản xuất bền vững?
Chúng ta cần phải chuyển hướng tiếp cận trong đầu tư, nâng cấp sửa chữa hệ thống thủy lợi phù hợp với vùng tưới, tiêu theo hướng chủ động thích ứng.
Trước mắt, cần kịp thời khắc phục những hạng mục bị hư hỏng, xuống cấp của hệ thống các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất vụ đông xuân 2025 - 2026. Theo đó, ngày 8/12 vừa qua, HĐND thành phố đã thông qua Nghị quyết số 100/NQ-HĐND về việc phân bổ kinh phí khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra năm 2025 để các địa phương, đơn vị triển khai thực hiện. Song song đó, thành phố cũng xây dựng các phương án đầu tư công trung hạn và dài hạn theo các đồ án quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Bên cạnh các giải pháp công trình, Huế đặc biệt chú trọng yếu tố vận hành. Hiện hệ thống thủy lợi trên địa bàn được điều hành linh hoạt theo diễn biến thời tiết và nguồn nước; chủ động hạ thấp mực nước kênh mương, ao hồ, vùng trũng khi cần thiết để gia tăng khả năng trữ nước, đồng thời vận hành tối đa các công trình khi xảy ra mưa lớn nhằm tiêu úng kịp thời, giảm thiểu thiệt hại.
Quan trọng hơn, cách cần tiếp cận hiện nay là kết hợp hài hòa giữa giải pháp “cứng” và giải pháp “mềm”, gắn đầu tư thủy lợi với quy hoạch sản xuất nông nghiệp, điều kiện sinh thái và đặc thù từng vùng. Qua đó, hệ thống thủy lợi không chỉ đóng vai trò phòng, chống thiên tai, mà còn trở thành nền tảng phục vụ sản xuất bền vững, thích ứng dài hạn với biến đổi khí hậu.

Người dân khắc phục hạ tầng thủy lợi bị bồi lấp sau mưa lũ
Để chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, Chi cục Thủy lợi và Biến đổi khí hậu thành phố Huế đang triển khai những giải pháp cụ thể nào để hiện thực hóa hướng đi này?
Thời gian qua, Chi cục đã tham mưu Sở Nông nghiệp và Môi trường ban hành Công văn số 7567/SNNMT-TL ngày 8/12/2025 để triển khai cho các địa phương, đơn vị tổ chức khoanh vùng, khơi thông, nạo vét...; xác định cụ thể các diện tích gieo trồng theo kế hoạch có nguy cơ ngập úng để tổ chức sản xuất phù hợp với tình hình nguồn nước, bảo đảm hạn chế các thiệt hại do mưa lũ, ngập úng gây ra. Đồng thời, chủ động xây dựng các phương án, kịch bản phòng, chống ngập úng chi tiết cho từng khu vực, lưu vực để sẵn sàng nhân lực, vật tư, trang thiết bị phục vụ công tác tiêu nước, chống úng ngay từ khi thiên tai mới xuất hiện.
Chúng tôi luôn theo dõi sát các thông tin dự báo thời tiết, khí tượng thủy văn để tham mưu Sở Nông nghiệp và Môi trường ban hành các bản tin cảnh báo cho chính quyền các địa phương, đơn vị và người dân chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan vận hành linh hoạt hệ thống các công trình thủy lợi. Qua đó, giảm áp lực ngập úng cho khu vực sản xuất nông nghiệp và khu dân cư, hạn chế thiệt hại ngay từ đầu.
Về đầu tư công trung hạn, Chi cục luôn phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng các ngành thống nhất báo cáo UBND thành phố để triển khai một số dự án xử lý khẩn cấp sạt lở bờ sông, gia cố hệ thống đê bao nội đồng, đồng thời nâng cấp, sửa chữa các hồ đập, trạm bơm đã xuống cấp.
Theo ông cần làm gì để hệ thống thủy lợi Huế không còn là “điểm nghẽn” mỗi mùa mưa lũ, mà trở thành trụ đỡ cho sản xuất và an sinh của người dân?
Điều tôi kỳ vọng lớn nhất là thành phố có được một cơ chế đầu tư ổn định, mang tính dài hạn và bền vững cho các công trình hạ tầng kỹ thuật nói chung; trong đó, có các công trình hạ tầng thủy lợi, phù hợp với đặc thù của Huế, là địa phương thường xuyên chịu tác động lớn của mưa lũ và biến đổi khí hậu.
Cùng với cơ chế, nguồn lực đầu tư cũng rất quan trọng. Ngoài ngân sách nhà nước, cần nghiên cứu huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác, lồng ghép các chương trình, dự án liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp bền vững, giảm nghèo… để đầu tư cho hệ thống các công trình thủy lợi một cách đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn và bảo đảm an sinh xã hội.
Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, đặc biệt là vai trò của chính quyền cơ sở và người dân mang ý nghĩa then chốt. Hệ thống các công trình thủy lợi không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành nông nghiệp, mà cần sự vào cuộc đồng bộ của các ngành. Khi hệ thống các công trình được đầu tư bài bản, vận hành hiệu quả, bảo trì thường xuyên và gắn với quy hoạch sản xuất từng vùng, tiểu vùng sinh thái, hệ thống thủy lợi sẽ phát huy đúng giá trị.











