Được phát triển với mục tiêu thay thế cho B-52 Stratofortress và B-58 Hustler, XB-70 Valkyrie được thiết kế để thâm nhập vào không phận của Liên Xô ở độ cao lớn với vận tốc lên tới Mach 3.
Không quân Mỹ hy vọng XB-70 trở thành biểu tượng sức mạnh tương lai của họ khi đó.
Kiểu dáng của XB-70 Valkyrie giống một phi thuyền không gian hơn là một máy bay ném bom, thậm chí giới quân sự còn đặt biệt danh cho loại vũ khí này là "máy bay ném bom mafia".
XB-70 Valkyrie là mẫu phản lực cơ ném bom siêu thanh chiến lược được Không quân Mỹ phát triển từ cuối những năm 1950 và tới năm 1964 thì thực hiện chuyến bay đầu tiên.
Vào lúc ra đời, XB-70 Valkyrie là chiếc máy bay nhanh nhất thế giới.
Để có được tốc độ "kinh hồn bạt vía" như vậy, máy bay XB-70 Valkyrie được trang bị tới 6 động cơ phản lực GE YJ93-GE-3.
Động cơ phản lực GE YJ93-GE-3 có lực đẩy lớn và hiện đại nhất thời bấy giờ: lực đẩy thô vào khoảng 84 kN và lực đẩy khi đốt tăng lực lên tới 128 kN mỗi chiếc.
Mỹ đã tiêu tốn khoảng 1,5 tỷ USD khi đó, tương đương với khoảng 11 tỷ USD thời điểm hiện tại) cho dự án này với chỉ 2 chiếc XB-70 Valkyrie được hoàn thiện.
Như vậy bình quân mỗi chiếc trị giá tới hơn 5,5 tỷ USD theo thời giá bây giờ. Hiện dòng máy bay ném bom tàng hình B-2 của Mỹ hiện tại cũng chỉ có giá 2,1 tỷ USD.
Do có chi phí quá lớn nên hai chiếc phản lực XB-70 Valkyrie được sử dụng chung bởi cả Không quân Mỹ và NASA.
Với ưu thế tốc độ cao, trần bay lớn, Cơ quan Hàng không Vũ trụ NASA đã sử dụng chiếc XB-70 Valkyrie để mô phỏng lại trạng thái phi trọng lực ngoài không gian.
Thậm chí NASA còn dự tính sau này dùng để làm bệ phóng trên không cho các loại tàu con thoi
XB-70 Valkyrie có thiết kế mũi máy bay khá nhọn với không gian chỉ đủ cho 2 phi công.
Đáng chú ý là lúc này hệ thống điện tử hàng không lúc này vẫn chưa hiện đại để có thể hỗ trợ đắc lực con người như ngày nay.
Vì vậy việc một chiếc máy bay ném bom chiến lược lại chỉ có phi hành đoàn 2 người thay vì 4,5 người như các oanh tạc cơ cùng thời đã hạn chế đáng kể khả năng tác chiến.
Dù cả hai chiếc đều được biên chế trong lực lượng Không quân Mỹ, tuy nhiên chiếc XB-70 Valkyrie tuy nhiên sau khi đánh giá, Mỹ đã từ bỏ việc trang bị hàng loạt loại máy bay này.
Một số nhà phê bình cho rằng, Mỹ đã bỏ ra khoản tiền khổng lồ chỉ để phi cơ này để... phá các kỷ lục hàng không thế giới.
Do có quá nhiều lỗi tồn đọng, khả năng tác chiến kém, chi phí vận hành lớn và Không quân Mỹ cũng không cần đến loại máy bay siêu thanh tốc quá cao đến như vậy.
Đến năm 1969 cả hai chiếc oanh tạc cơ XB-70 Valkyrie đã được chuyển giao hẳn cho NASA để cơ quan này sử dụng nó vào mục đích đưa tàu con thoi vào vũ trụ.
Cơ quan Hàng không Vũ trụ NASA đã tận dụng rất tốt tính năng tốc độ và khả năng bay cao của chiếc XB-70 Valkyrie này.
Cơ cấu phóng tàu con thoi từ trên chiếc XB-70 khá đơn giản, máy bay sẽ bay ở độ cao tối đa, tốc độ tối đa với tàu con thoi trên lưng, sau đó tàu con thoi sẽ tách ra và tận dụng tốc độ có sẵn (Mach 3) để trượt ra khỏi bầu khí quyển trái đất một cách dễ dàng.
Tuy nhiên, phía NASA cũng chỉ sử dụng hai chiếc XB-70 Valkyrie này được vỏn vẹn 3 năm khi đến tháng 4/1972 thì họ cũng phải loại biên cả hai do chi phí vận hành quá lớn và khó bảo dưỡng.
Về thông số kỹ thuật, chiếc XB-70 Valkyrie dài 57,6 m, rsải cánh rộng 32 m, chiều cao 9,1m.
XB-70 Valkyrie có trọng tải rỗng 115 tấn, trọng tải cất cánh tối đa đạt 246 tấn.
Tốc độ tối đa Mach 3,1 tốc độ hành trình Mach 3,0, tầm hoạt động 6900 km và trần bay khoảng 23.000 m.
Dù dự án XB-70 bị hủy bỏ, nhưng 15 năm sau những ưu thế về kỹ thuật của dòng máy bay này đã được Mỹ áp dụng thành công cho pháo đài bay B-1B Lancer.