Xem xét đề xuất nâng 'trần' giờ làm thêm của người lao động
Chính phủ đề xuất nâng số giờ làm thêm trong 1 tháng của người lao động từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ và số giờ làm thêm trong 1 năm của người lao động là không quá 300 giờ.
Tiền lương làm thêm vào ngày nghỉ lễ, tết sẽ bằng 300% lương ngày thường Đại biểu Vũ Tiến Lộc: Chủ doanh nghiệp và người lao động cùng trên một thuyền Giới doanh nghiệp băn khoăn về quy định giới hạn giờ làm thêm Tăng giờ làm thêm: Tiếp tục trình ra Quốc hội cho ý kiến VCCI: Năng suất thấp, chưa đến lúc tăng lương, giảm giờ làm
Chiều 10/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã xem xét về dự thảo Nghị quyết về thời giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của người lao động.
Hỗ trợ phục hồi sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động
Trình bày tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, theo quy định tại Điều 107 Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động được phép thỏa thuận với người lao động làm thêm không quá 40 giờ/tháng, đồng thời một số ngành, nghề, công việc (như dệt may, da, giày, chế biến thủy hải sản …) được làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ/năm.
Thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương nhận được nhiều phản ánh của các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp về thực trạng khó khăn của lực lượng lao động, mong muốn được thỏa thuận làm thêm giờ để phục hồi sản xuất, làm bù cho khoảng thời gian phải ngừng việc.
Thực tế trên cho thấy các quy định về giới hạn làm thêm tại Điều 107 Bộ luật Lao động cần phải có sự điều chỉnh trong giai đoạn ngắn để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, người lao động có việc làm và thêm thu nhập, ổn định lại cuộc sống.
Vì vậy, Chính phủ đã xây dựng dự thảo Nghị quyết về thời giờ làm thêm, trong đó đề xuất nâng số giờ làm thêm trong 1 tháng của người lao động từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ và số giờ làm thêm trong 1 năm của người lao động là không quá 300 giờ, được áp dụng cho tất cả các ngành, nghề, công việc.
Thời gian thực hiện từ ngày ký đến thời điểm các biện pháp quy định tại điểm 3 của Nghị quyết số 30/2021/QH15 hết hiệu lực thi hành (31/12/2022).
Nội dung quy định tại dự thảo Nghị quyết là khác so với Bộ luật Lao động năm 2019. Theo quy định hiện hành, việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Lao động thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đặc biệt, đáp ứng yêu cầu cấp bách, đồng thời để việc triển khai chính sách hỗ trợ được tiến hành trong thời gian sớm nhất, Chính phủ trình UBTVQH căn cứ Nghị quyết 30 để xem xét, quyết định thông qua.
Thẩm tra nội dung này, Thường trực Ủy ban Xã hội và các ý kiến tham gia cơ bản đều đồng tình với quan điểm của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Nghị quyết quy định về biện pháp hết sức đặc biệt này như là một giải pháp tình thế và chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng nên trình Quốc hội ban hành Nghị quyết như là một giải pháp đặc biệt vừa phục hồi, phát triển kinh tế vừa có phần gắn với phòng, ngừa dịch bệnh Covid-19 và thực hiện trong thời gian cả năm 2022 và năm 2023.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh trình bày tại phiên họp.
Nâng "trần" giờ làm thêm: Cần thiết, song còn nhiều ý kiến khác nhau
Về các mức đề xuất cụ thể của Chính phủ, trong cơ quan thẩm tra có nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến đồng tình với đề xuất tăng giờ làm thêm trong năm, một số ý kiến khác đề nghị cân nhắc việc mở rộng áp dụng mức giờ làm thêm trong năm với tất cả các ngành, nghề, công việc mà không có sự phân biệt tính chất đặc thù hoặc chỉ quy định các đối tượng được mở rộng (như ngành, nghề, công việc thiếu lao động cục bộ).
Cũng có loại ý kiến đề nghị nếu áp dụng 300 giờ một năm cho tất cả các ngành, nghề thì cần nâng lên mức 400 giờ cho các ngành, nghề, công việc hiện đang được áp dụng mức tối đa 300 giờ.
Theo Thường trực Ủy ban Xã hội, vấn đề thời giờ làm thêm đã được Quốc hội, UBTVQH thảo luận và cân nhắc rất kỹ trong quá trình xem xét, thông qua Bộ luật Lao động năm 2019. Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng, để bảo đảm về mặt sức khỏe, an toàn lao động cho người lao động và không đi ngược với xu hướng tiến bộ, phát triển khoa học, công nghệ, tăng lương, giảm giờ làm nên đã biểu quyết giữ như quy định của Bộ luật Lao động năm 2012.
Trong bối cảnh hiện nay, khi người lao động và người sử dụng lao động vừa tăng cường các hoạt động phục hồi, phát triển sản xuất, linh hoạt trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, bố trí lao động và vừa áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thì Thường trực Ủy ban Xã hội nhất trí với Chính phủ sự cần thiết mở rộng các ngành, nghề, công việc được áp dụng tối đa 300 giờ một năm.
Tuy nhiên, đồng tình với loại ý kiến thứ hai, Thường trực Ủy ban Xã hội thấy rằng, việc áp dụng mức trần 300 giờ cho tất cả các ngành, nghề, công việc là quá rộng, chưa đánh giá tác động đầy đủ của việc nâng mức trần này đến sức khỏe, an toàn lao động của người lao động, đặc biệt là phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và những người làm các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Do đó, để bảo đảm sức khỏe, an toàn lao động cho người lao động, Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát các đối tượng nói trên và rà soát các ngành, nghề, công việc, trường hợp khác mà việc tăng mức trần thời giờ làm thêm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, không đáp ứng được yêu cầu làm việc… để quy định (theo hướng loại trừ) các đối tượng không áp dụng mức trần 300 giờ làm thêm trong năm.
Về giờ làm thêm trong tháng, bên cạnh một số ý kiến đồng tình với đề xuất của Chính phủ, đa số ý kiến trong cơ quan thẩm tra và ý kiến tham gia không tán thành với việc nâng giới hạn về thời giờ làm thêm trong tháng mà cho rằng chỉ nên nâng giới hạn làm thêm giờ lên mức 56 giờ hoặc 60 giờ để tương ứng với tăng giờ làm thêm trong năm từ 200 lên 300 giờ và chỉ áp dụng đối với ngành, nghề, công việc, trường hợp được làm thêm tối đa 300 giờ một năm.
Theo Thường trực Ủy ban Xã hội, việc tăng này là quá cao, tương ứng với 9 ngày làm việc bình thường; tăng thời giờ làm việc sẽ có ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe, an toàn lao động của người lao động, ảnh hưởng đến thời gian chăm sóc con cái, gia đình, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh; người lao động không đủ thời gian nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe, tái tạo sức lao động và việc tăng này đi ngược với xu hướng tiến bộ, phát triển khoa học, công nghệ, tăng lương, giảm giờ làm.