Xem xét việc giải thích quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công
Chiều 9/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét việc giải thích quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công.
Tại phiên họp, Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình số 709 về việc giải thích quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công. Theo đó, Luật Đầu tư công số 39 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 13/6/2029, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2020, trong đó, khoản 1, Điều 6 về phân loại dự án đầu tư công quy định:
“1. Căn cứ vào tính chất, dự án đầu tư công được phân loại như sau:
a) Dự án có cấu phần xây dựng là dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng, bao gồm cả phần mua tài sản, mua trang thiết bị của dự án;
b) Dự án không có cấu phần xây dựng là dự án mua tài sản, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị, máy móc và dự án khác không quy định tại điểm a khoản này”.
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết, trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc, nhất là cách hiểu chưa thống nhất giữa các cơ quan khác nhau về quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công.
Do đó, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, giải thích bằng văn bản quy định này để thống nhất cách hiểu trong tổ chức thực hiện. Căn cứ quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thẩm quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội có văn bản giải thích quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công để có cách hiểu thống nhất, khơi thông nguồn lực công, đáp ứng hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách đã tổ chức phiên họp để thẩm tra về nội dung trên. Theo Tờ trình của Chính phủ, hiện nay đang có 02 cách hiểu khác nhau trong áp dụng pháp luật đối với quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công, dẫn đến phát sinh vướng mắc, đến nay một số khoản chi ngân sách nhà nước (NSNN), phương án phân bổ ngân sách Trung ương (NSTW) năm 2024 chưa được phân bổ.
Do vậy, Chính phủ “đề nghị UBTVQH có văn bản giải thích quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư để có cách hiểu thống nhất, khơi thông nguồn lực công, đáp ứng hoạt động của bộ máy nhà nước”.
Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, nội dung tại khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công là để phân loại dự án đầu tư công, không có nghĩa cấm sử dụng các nguồn vốn khác cho việc mua sắm, sửa chữa nhỏ, bảo trì, bảo dưỡng.
Quy định của Luật Đầu tư công đã rõ, tuy nhiên, để giải quyết vướng mắc của Chính phủ về cách hiểu đối với khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công, tạo điều kiện cho Chính phủ xử lý dứt điểm các vướng mắc trên thực tiễn, các ý kiến trong Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách thống nhất việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, có ý kiến về nội dung này.
Có ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công đã quy định cụ thể về phân loại dự án đầu tư công, nên việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật là không phù hợp.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, Tờ trình số 709/TTr-CP của Chính phủ nêu các khó khăn, vướng mắc trong việc phân bổ, bố trí dự toán và sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên, trong đó, một số vấn đề chưa được quy định rõ trong pháp luật hiện hành, vì vậy, cần trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Thường trực Ủy ban Kinh tế và Thường trực Ủy ban Pháp luật cũng có ý kiến về nội dung này. Trong đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, để có đủ cứ, cơ sở xác định việc cần thiết trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Luật theo thẩm quyền quy định tại Điều 159 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề nghị Chính phủ đánh giá tình hình áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công trong 8 năm qua.
Trong đó, cần báo cáo cụ thể, làm rõ trong 8 năm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 6 có phát sinh cách hiểu khác nhau từ thời điểm nào, vướng mắc trong triển khai thực hiện thế nào và lý do tại sao đến thời điểm hiện nay Chính phủ mới có Tờ trình báo cáo phát sinh 2 cách hiểu khác nhau.
Thường trực Ủy ban Pháp luật có 3 loại ý kiến về vấn đề này: Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không cần giải thích quy định này của Luật Đầu tư công, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông báo kết luận về nội dung này.
Loại ý kiến thứ hai tán thành sự cần thiết giải thích quy định này của Luật Đầu tư công theo đề nghị của Chính phủ để có cách hiểu thống nhất, làm cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Loại ý kiến thứ ba cho rằng, Tờ trình của Chính phủ chưa đủ thông tin, chưa đề xuất cụ thể hướng giải thích, do đó, chưa đủ cơ sở để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, Chính phủ cần hoàn thiện hồ sơ theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nêu rõ, trên cơ sở đề nghị của Chính phủ, các ý kiến tham gia thẩm tra, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định các nội dung:
Thứ nhất, để tránh cách hiểu khác nhau đối với khoản 1 Điều 6 của Luật Đầu tư công, thống nhất trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về vấn đề này, theo đó khẳng định: “Khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư công quy định việc phân loại dự án đầu tư công, không quy định hạn chế (không cấm) việc sử dụng các nguồn vốn khác để cải tạo, nâng cấp dự án đã đầu tư xây dựng để sửa chữa, mua sắm tài sản, trang thiết bị”.
Thứ hai, về hình thức văn bản, Ủy ban Tài chính, Ngân sách xin ý kiến về hai phương án: Một là, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết giải thích pháp luật về nội dung trên; Hai là, không ban hành Nghị quyết riêng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nội dung này, chỉ ban hành văn bản Thông báo ý kiến kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Tờ trình của Chính phủ.
Về việc sử dụng cụ thể nguồn kinh phí thường xuyên, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát, căn cứ quy định của pháp luật để có quy định, hướng dẫn sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên từ NSNN bảo đảm rõ ràng, chặt chẽ, đúng quy định, tránh bị lạm dụng để triển khai thực hiện thống nhất.