Xu hướng gia tăng các loại hình thiên tai, thời tiết khí hậu cực đoan, gây thiệt hại lớn
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động và dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Những năm gần đây, các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt tại Việt Nam cùng với xu hướng gia tăng cả về cường độ và tần suất các hiện tượng thời tiết cực đoan và các loại hình thiên tai liên quan đến khí hậu, gây ra tổn thất và thiệt hại lớn...

Xu hướng gia tăng cả về cường độ và tần suất các hiện tượng thời tiết cực đoan và các loại hình thiên tai liên quan đến khí hậu.
Nhận định này được đưa ra trong Báo cáo cập nhật Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP cập nhật) của Việt Nam vừa được gửi đến Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Đến nay, Việt Nam là một trong 67 quốc gia đã nộp Báo cáo tới UNFCCC.
Báo cáo cập nhật thể hiện những bước tiến quan trọng của Việt Nam, không chỉ trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế mà còn gồm những nỗ lực tăng cường khả năng chống chịu trước những biến động ngày càng khắc nghiệt của khí hậu.
SỰ GIA TĂNG RỦI RO THIÊN TAI DO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động bởi biến đổi khí hậu, sự gia tăng mức độ phơi bày trước hiểm họa của con người và tài sản là nguyên nhân chính của sự gia tăng thiệt hại kinh tế dài hạn do thiên tai liên quan đến thời tiết và khí hậu.
Theo báo cáo cập nhật, mức độ tổn thương do biến đổi khí hậu là khác nhau giữa các vùng. Khu vực ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có mức độ phơi bày cao trước những tác động của biến đổi khí hậu nhưng có độ nhạy cảm trung bình trước những thay đổi của khí hậu. Khu vực miền núi phía Bắc tuy mức độ phơi bày không cao nhưng là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nên mức độ nhạy cảm cao.
Với dải ven biển có chiều dài 3.260 km và các vùng biển hải đảo, Việt Nam sẽ chịu nhiều rủi ro và nguy cơ, tác động tiềm tàng nhiều nhất liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Rủi ro sẽ ngày càng gia tăng đối với các vùng châu thổ và đô thị lớn, đặc biệt là các đô thị ven biển.
Vùng núi phía Bắc và vùng núi ở miền Trung sẽ chịu nhiều rủi ro hơn do lũ quét và trượt lở đất. Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung du và khu vực Tây Nguyên chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn hán, thiếu nước và tăng hoang mạc hóa.

Mưa lớn, nước dâng gây ngập lụt nhiều khu vực gây thiệt hại về tài sản. Ảnh: Mạnh Thắng.
Đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu tác động của ngập lụt do nước biển dâng, sụt lún đất, giảm lượng phù sa về đồng bằng và khai thác nước dưới đất quá mức.
Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao trước biến đổi khí hậu là nông nghiệp và an ninh lương thực, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nơi cư trú và hạ tầng kỹ thuật.
Theo nghiên cứu, sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến gia tăng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và các đối tượng dễ bị tổn thương. Trong tương lai, dưới tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nguy cơ bị ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Về tác động đến các lĩnh vực, báo cáo chỉ rõ, tài nguyên nước chịu tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất trước diễn biến của biến đổi khí hậu, kéo theo các vấn đề về dân sinh, kinh tế và môi trường. Những năm gần đây, dòng chảy trên các lưu vực sông chính thấp hơn trung bình nhiều năm. Dòng chảy mùa khô giảm, mực nước nhiều nơi đạt mức thấp nhất lịch sử, hạn hán, thiếu nước xảy ra thường xuyên hơn, mặn xâm nhập sâu hơn vào đất liền.
Hạn hán có thể diễn ra nhiều hơn và khắc nghiệt hơn ở Trung Bộ. Xâm nhập mặn sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng và nghiêm trọng hơn tình trạng lũ lụt. Đỉnh lũ cao nhất năm có thể tăng liên tục ở hầu hết các lưu vực sông. Lũ quét và trượt lở đất cũng xảy ra nhiều hơn, khốc liệt hơn ở vùng núi Bắc Bộ và Tây Nguyên.
Biến đổi khí hậu có thể làm suy giảm cao độ tuyệt đối mực nước dưới đất, làm giảm lượng tích trữ nước dưới đất và làm tăng diện tích chứa nước dưới đất mặn.
Trong lĩnh vực trồng trọt, nhiệt độ tăng, nắng nóng kéo dài, tốc độ bốc thoát hơi nước tăng khiến nhu cầu tưới nước gia tăng và có thể làm gia tăng dịch bệnh cho cây trồng, làm thay đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, dẫn đến việc biến mất của một số loài và có thể làm phát sinh một số chủng, loài sâu bệnh mới. Do tác động của biến đổi khí hậu, năng suất lúa và ngô của Việt Nam đến năm 2030 có thể giảm lần lượt là 8,8 và 18,7% và đến năm 2050 sẽ giảm 15,06 và 32,9%.
Nước biển dâng làm gia tăng nguy cơ mất hoặc thu hẹp diện tích đất canh tác nông nghiệp, tăng nguy cơ đất bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến an ninh lương thực.
THÍCH ỨNG HIỆU QUẢ ĐỂ GIẢM THIỂU TỔN THẤT, HẠN CHẾ THIỆT HẠI TĂNG TRƯỞNG
Theo thống kê, từ năm 2011 đến năm 2020, khí hậu cực đoan đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và phi kinh tế. Về kinh tế, thiệt hại ước tính 229.958 tỷ đồng (tương đương 10 tỷ USD, theo tỷ giá năm 2022).
Giai đoạn 2011- 2016 tổng thiệt hại ước tính là 68.230 tỷ đồng; giai đoạn 2016- 2020 là 161.728 tỷ đồng, gấp gần 3 lần giai đoạn 5 năm trước đó. Tính trung bình mỗi năm các hiện tượng khí hậu cực đoan gây thiệt hại khoảng 23.000 tỷ đồng.
Trong tương lai, dẫn các số liệu nghiên cứu, báo cáo cập nhật chỉ rõ: biến đổi khí hậu sẽ là một trong các tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam trong vòng 40 năm tới.
Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, khi nhiệt độ tăng lên 1oC, có thể gây tổn thất khoảng 1,8% GDP và con số này sẽ là 4,5% GDP khi nhiệt độ tăng 1,5oC. Thiệt hại đến tăng trưởng kinh tế ước tính khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả.

Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực tăng cường khả năng thích ứng với những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.
Có thể thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương và chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Các tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra có xu hướng gia tăng, làm cản trở các nỗ lực phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội.
Để thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động trong nỗ lực ứng phó và để thực hiện các cam kết quốc tế.
Thời gian qua, Việt Nam luôn quan tâm, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tăng cường sức chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, bao gồm xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện chính sách quan trọng; tăng cường nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thích ứng với biến đổi khí hậu; thực hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế về thích ứng với biến đổi khí hậu. Qua đó, bước đầu đạt được nhiều kết quả quan trọng trong nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng giai đoạn tới là triển khai tổng thể, toàn diện và hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp ưu tiên trong Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (cập nhật) nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương và rủi ro trước tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, giảm thiểu tổn thất, thiệt hại; thúc đẩy lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch…
Báo cáo NAP cập nhật
Việt Nam đã xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20/7/2020). Sau 3 năm triển khai, để cập nhật những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp mới, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (cập nhật) tại Quyết định số 1422/QĐ-TTg ngày 19/11/2024).
Là quốc gia đang phát triển lại chịu nhiều tác động của thiên tai và có mức độ dễ bị tổn thương cao trước biến đổi khí hậu, thách thức trong thực hiện kế hoạch quốc gia là không nhỏ. Vì vậy, việc huy động mọi nguồn lực để nâng cao khả năng chống chịu và triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng.
Theo số liệu báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 của Việt Nam, nhu cầu tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu vào năm 2030 ước tính vượt quá 3%- 5% GDP của năm 2020.
Ước tính trong giai đoạn 2021- 2030, Việt Nam cần khoảng 55- 92 tỷ USD để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ thích ứng biến đổi khí hậu. Nếu trong giai đoạn 2021- 2030 Việt Nam tiếp tục thực hiện phương án chi 1,5% GDP cho thích ứng với biến đổi khí hậu thì bình quân mỗi năm cần huy động vốn ngoài ngân sách khoảng 2,75- 6,42 tỷ USD, (khoảng 27,5- 64,16 tỷ USD cho giai đoạn 2021- 2030).
Dự tính thời gian tới, trong khi các nỗ lực toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính chưa đủ để giữ cho mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 2oC so với thời kỳ tiền công nghiệp, biến đổi khí hậu sẽ vẫn diễn biến theo xu thế cực đoan, khó đoán định hơn. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực tăng cường khả năng thích ứng với những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.