'Xu hướng' IELTS
Sự chuyển dịch trên thị trường đào tạo tiếng Anh đang thay đổi rõ rệt khi ngày một nhiều bạn trẻ chọn IELTS thay vì học tiếng Anh phổ thông như trước đây. Tôi đón sự chuyển dịch này với cảm xúc mừng lo pha trộn.
Xu hướng học IELST để xét tuyển vào Đại học
Nhà có cô cháu gái cũng chuẩn bị thi đại học, việc dùng khối D01 (Toán, Văn, Anh) để thi vào đại học khiến gia đình tôi tìm đến IELTS như một cách cứu cánh cho hành trình dài của cô bé. Có chứng chỉ IELTS 5.5 là tương đương 10 điểm thi tốt nghiệp THPT môn tiếng Anh. Ôn khẩn cấp trong năm lớp 11 là đủ. Năm lớp 12 thì toàn lực ôn hai môn Toán và Văn. Đó là công thức đảm bảo đỗ đại học trong những năm gần đây khi cuộc cạnh tranh vào các trường công lập hàng đầu ngày càng quyết liệt.
Trong năm 2023, tại Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) có khoảng 11.000 hồ sơ đăng ký có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế; tăng gấp 220 lần so với năm 2017 (50 hồ sơ). Trong đó khoảng 70% thí sinh đạt xét tuyển từ 6.5 trở lên, chủ yếu ở mức 7.0.
“Hiệu ứng Mozart”
Một con số thống kê đáng chú ý từ NEU là: Những sinh viên tuyển đầu vào bằng chứng chỉ tiếng Anh quốc tế đầu tiên đã ra trường, sau khi tổng kết, điểm trung bình học tập của nhóm này cao hơn nhóm thí sinh không có chứng chỉ IELTS. Nhóm thí sinh có chứng chỉ tiếng Anh được đánh giá là “có khả năng học, đạt kết quả tốt trong quá trình đào tạo”.
Đây không phải là một nhận định cá biệt. Nhiều trường đại học qua các năm, đã sử dụng những thống kê tương tự, cố gắng chỉ ra rằng có liên quan giữa việc đạt chứng chỉ IELTS và có kết quả học tập tốt ở trường đại học.
Song, cần làm rõ hơn về mối quan hệ của những con số này. Thống kê của NEU khiến hầu hết chúng ta đang lầm tưởng rằng học IELTS tốt sẽ có khả năng đạt kết quả cao trong quá trình đào tạo. Đây giống như sự hiểu nhầm kinh điển trong thống kê: mối quan hệ tương quan và nhân quả, hay còn gọi là “hiệu ứng Mozart”.
Nghiên cứu viên Lang Minh từng dẫn chiếu từ Tờ New York Times: “Các nhà nghiên cứu xác định rằng nghe Mozart quả thật làm bạn thông minh hơn”. Ảnh hưởng này lớn đến nỗi những năm cuối thế kỷ 20, các ông bố, bà mẹ bắt đầu mua đĩa nhạc cổ điển cho con mình nghe từ nhỏ, thậm chí từ khi em bé còn nằm trong bụng mẹ.
Nghiên cứu gốc chỉ dừng lại ở khẳng định rằng nhạc Mozart giúp học sinh tư duy tốt hơn trong một thời gian ngắn và không có mối quan hệ lâu dài giữa nhạc cổ điển và tư duy học tập.
Nghe nhạc cổ điển và học tập tốt chỉ có quan hệ tương quan (tức là các gia đình cho nghe nhạc cổ điển thì con sẽ thường có điểm số học tập cao hơn) chứ không phải quan hệ nhân quả (nghe nhạc cổ điển là nguyên nhân dẫn đến điểm số học tập cao hơn).
Nhạc cổ điển là một cái cớ đủ khách quan và hấp dẫn để che đi mối quan hệ bất bình đẳng giáo dục trong thu nhập giữa các hộ gia đình. Những gia đình có kinh tế tốt sẽ đầu tư nhiều vào giáo dục, mua nhiều sách tham khảo, cho con đi học thêm nhiều hơn nên điểm số của con cao hơn.
Và những gia đình đó cũng có nhiều khả năng sẽ nghe những thể loại nhạc cao cấp như nhạc cổ điển, nhạc thính phòng. Tựu trung lại, con số thống kê ở trên đang giấu đi cái gọi là “kinh tế gia đình”, thứ đang diễn ra mà lại bị tảng lờ, không bàn đến. Và IELTS cũng không thể là một dẫn chứng cho kết quả đào tạo tốt.
Với học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay, IELTS thực chất là một công cụ đáng để đầu tư bởi những lợi ích trước mắt mà ai cũng thấy được: xin việc dễ dàng hơn, mở rộng cơ hội săn học bổng và du học, được miễn thi ngoại ngữ tốt nghiệp THPT và tuyển thẳng vào một số trường đại học top đầu. Vì thế, IELTS dần trở thành “cơn sốt” mà ai cũng muốn có được tấm bằng thay vì nâng cao trình độ Tiếng Anh.
Cùng tâm lý phân đua với các bạn đồng trang lứa, thang điểm Ielts đang là vấn đề mà các phụ huynh gò ép con mình đến với cuộc thi. Phụ huynh có lẽ không biết thang điểm 6.0 của con là tốt hay xấu nhưng họ biết nó cao hay thấp so với con nhà người khác. Con nhà người ta đạt thang điểm x.y thì con mình cũng phải theo kịp để đạt điểm x.y đó. Vậy thang điểm IELTS cũng như điểm số trên lớp học, trở thành một lý do để cả phụ huynh lẫn học sinh so sánh ai hơn hay kém ai.
Xu hướng hay công cụ?
Trong thời đại này, có thể thấy đa số giới trẻ đều đam mê tiếng Anh, nhưng một khi bị kéo vào một cuộc đua tranh mệt mỏi để theo đuổi thang điểm ngày càng cao, họ đối mặt với nguy cơ mất đi cảm hứng và động lực học.
Mới đây nhất, trong phiên chất vấn tại Kỳ họp thứ 14, HĐND tỉnh Thanh Hóa, các đại biểu HĐND tỉnh đề nghị Giám đốc sở GD&ĐT Trần Văn Thức làm rõ thực trạng, nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Giám đốc sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hóa khẳng định chất lượng dạy và học ngoại ngữ ở Thanh Hóa còn thấp hơn nhiều so với cả nước, đặc biệt là 11 huyện miền núi.
Ngoài giải pháp tăng cường đầu tư về trang thiết bị dạy học và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên thì đổi mới phương pháp học và tăng cường các cuộc thi đánh giá năng lực cần được đẩy mạnh hơn, ông Trần Văn Thức nhấn mạnh. Rõ ràng, IELTS sẽ tiếp tục trở thành một tiêu chuẩn ngoại ngữ, nhưng không phải vì vậy mà biến thành “xu hướng”, ai ai cũng phải có 1 thang điểm IELTS.
Xây dựng nền tảng ngôn ngữ là một quá trình kéo dài nhiều năm và đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, nhưng việc chọn đi đường tắt và chỉ chú trọng vào các chiến thuật luyện đề và phương pháp “học tủ”, “học vẹt” làm cho học viên không chú trọng vào các thói quen học tập bền vững. Nhưng đa số học sinh không làm như vậy vì họ coi các thói quen học tập bền vững (như kết hợp tiếng Anh với những sở thích của mình và tiếp xúc với các sản phẩm văn hóa qua việc xem phim không vietsub, đọc báo nước ngoài, nghe podcast,...) tốn nhiều thời gian và không mang lại hiệu quả ngắn hạn.
Mục tiêu của ngành giáo dục là xây dựng kỹ năng và sự hiểu biết toàn diện của học sinh, và đây là một thứ khó lượng hóa được bằng một số điểm. IELTS vẫn là kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh bậc nhất thế giới. Nhưng nó chỉ là thế, một công cụ, một phương tiện chứ không nên là mục đích học, hay là xu hướng học.
Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/giao-duc/xu-huong-ielts/28079.htm