Ý nghĩa tên gọi 168 xã, phường, đặc khu TP.HCM
Qua cuốn sách mới xuất bản 'Tên xưa gọi nhớ', có thể thấy tên gọi các phường, xã ở TP.HCM mang theo dấu tích của lịch sử khai phá, gắn với địa hình, văn hóa và những ký ức cộng đồng của vùng đất phương Nam.

Sáp nhập 3 địa phương giúp TP.HCM mới mở rộng không gian phát triển. Ảnh: Quỳnh Danh.
Mỗi địa danh tại TP.HCM là một lát cắt thời gian, phản ánh dòng chảy mở cõi của người Việt về phương Nam từ thế kỷ XVII. Không chỉ đơn thuần là ký hiệu hành chính, tên gọi còn thể hiện sự kết nối giữa cư dân với thiên nhiên, tín ngưỡng, quê gốc và các sự kiện lịch sử địa phương.
Những địa danh gợi nhớ đến cây trái, sông rạch, tên làng quê miền Trung được mang theo vào Nam, do đó hệ thống tên gọi tại TP.HCM ngày nay kết tinh từ nhiều lớp văn hóa. Trong bối cảnh điều chỉnh địa giới hành chính năm 2025, việc giữ lại hoặc phục dựng các địa danh truyền thống trở thành một phần quan trọng trong bảo tồn ký ức đô thị.
Khảo cứu từ sách Tên xưa gọi nhớ thống kê nguồn gốc và ý nghĩa của 168 tên gọi hành chính tại TP.HCM sau quá trình sắp xếp lại địa giới năm 2025. Các địa danh phản ánh đặc điểm tự nhiên, tín ngưỡng, lịch sử khai hoang và mối liên kết cộng đồng qua từng thời kỳ. Dữ liệu cho thấy một cấu trúc tên gọi nhất quán, vừa phục vụ quản lý hành chính vừa góp phần duy trì bản sắc văn hóa địa phương.
Tên gọi bắt nguồn từ lịch sử hình thành vùng đất
Phần lớn địa danh tại TP.HCM hình thành vào cuối thế kỷ XVII, thời điểm người Việt bắt đầu tiến về phía Nam lập làng, dựng ấp. Tên gọi nhiều nơi phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con người và môi trường sống như Gò Vấp, Bàu Bàng, Rạch Dừa, Vũng Tàu. Những địa danh này mô tả đặc điểm địa hình hoặc thủy văn nơi cư trú.
Bên cạnh các từ thuần Việt, không ít địa danh sử dụng âm Hán Việt như Long Sơn, Phước Hải, Long Điền. Nhiều tên khác có gốc Khmer hoặc Chăm được Việt hóa, điển hình như Cần Giờ, Bà Rịa hoặc Sài Gòn. Đây là minh chứng cho sự giao thoa ngôn ngữ trong quá trình khai khẩn và định cư.
Việc đặt tên còn gắn liền với sản vật địa phương. Hóc Môn từng là nơi có nhiều cây môn, Dầu Tiếng, Xuyên Mộc, Vườn Chuối hay Vườn Lài đều mang đặc điểm sinh thái rõ nét. Những cái tên này thường xuất hiện ở giai đoạn đầu khi cư dân chọn định danh gắn với tự nhiên.

Tên gọi “Sài Gòn” bắt nguồn từ ý nghĩa “rừng cây gòn”. Ảnh: Quỳnh Danh.
Không ít địa danh là sự gợi nhắc về quê cũ. Có giả thuyết cho rằng từ Phú Nhuận bắt nguồn từ Phú Yên, còn Tân Bình gắn với Bình Định. Cách gọi này là biểu hiện của dòng ký ức di dân, đồng thời thể hiện mong muốn lập nghiệp và an cư tại vùng đất mới.
Một số tên gọi lưu dấu tên nhân vật hoặc cộng đồng dân cư có thật. Cầu Ông Lãnh, Bà Điểm, Trừ Văn Thố, Thủ Đức là các ví dụ phổ biến. Trường hợp Thủ Đức còn tồn tại nhiều giả thuyết, trong đó đáng chú ý là khả năng liên quan đến ông Tạ Huy, người có công khai khẩn vùng đất này. Riêng tên gọi Sài Gòn từng được người Hoa phát âm là Thầy Ngôn, về sau người Pháp chọn sử dụng vì dễ đọc.
Trong quá trình mở rộng địa giới, nhiều làng được chia tách hoặc sáp nhập. Việc đặt thêm tiền tố như Tân, Đông, Tây hoặc số thứ tự Nhất, Nhì, Tam là cách phân biệt và ghi nhận các đơn vị hành chính mới. Một số nơi dùng cách ghép tên như Tam Long, Tân Mỹ, Bình Thạnh, giữ lại yếu tố văn hóa trong hệ thống tên gọi hiện đại.
Những sự thật thú vị
Hệ thống tên gọi tại TP.HCM hiện nay cho thấy xu hướng quy chuẩn hóa ngôn ngữ và sử dụng từ có nghĩa tích cực. Theo thống kê từ sách Tên xưa gọi nhớ, các tiền tố phổ biến gồm Tân (23 lần), Bình (22), An và Phú (11), Long (9), Hòa và Phước (5). Những yếu tố này thường mang hàm ý ổn định, phát triển và phúc lành.
Các tên gọi định vị theo phương hướng cũng được sử dụng. “Đông” xuất hiện trong 11 địa danh, “Tây” có 8, trong khi “Nam” và “Bắc” mỗi hướng chỉ có một tên đại diện. Đông Hòa, Tây Thạnh, Nam Hòa hay Bắc Bình là những ví dụ thể hiện rõ việc định hướng vị trí địa lý trong cách đặt tên.
Một đặc điểm thú vị là sự tồn tại của các cặp tên đảo ngược nhau như Phước Long - Long Phước, Hòa Bình - Bình Hòa, An Phú - Phú An. Các tổ hợp này cho thấy cách cấu trúc từ vựng được sử dụng linh hoạt, không cố định theo một khuôn mẫu nhất định nhưng vẫn tuân thủ nguyên tắc dễ nhớ và có nghĩa tốt đẹp.

Sách Tên xưa gọi nhớ hệ thống nguồn gốc, ý nghĩa của 168 địa danh hành chính ở TP.HCM. Ảnh: T.H.
Một nhóm tên khác xuất phát từ tên người hoặc truyền thuyết dân gian, gắn với sự hình thành vùng đất từ sớm. Bà Rịa, Bảy Hiền, Thủ Đức hay Cầu Ông Lãnh là những địa danh có nền tảng trong ký ức cộng đồng trước khi trở thành đơn vị hành chính chính thức.
Một số địa phương được giữ nguyên tên gọi do từng là căn cứ kháng chiến hoặc có hệ thống địa đạo. Phú Thọ Hòa, Long Phước, An Nhơn Tây, Kim Long, Nhuận Đức và Tân Thành nằm trong nhóm này. Việc bảo lưu tên gọi vừa phục vụ quản lý vừa giữ lại ký ức lịch sử cách mạng.
Đặc biệt, đợt điều chỉnh địa giới năm 2025 cũng ghi nhận nhiều địa danh lần đầu tiên được đưa vào hệ thống hành chính. Những cái tên như Diên Hồng, Tân Mỹ, Vườn Lài, Tam Long, Hồ Tràm hay Cầu Kiệu vốn quen thuộc với cư dân, nay được chính thức hóa nhằm phản ánh thực tế sinh hoạt và nhận diện cộng đồng địa phương.
Nguồn Znews: https://znews.vn/y-nghia-ten-goi-168-xa-phuong-dac-khu-tphcm-post1593605.html