Yêu nước - dòng chảy bất tận của lịch sử, văn hóa Việt Nam

Suốt mấy nghìn năm qua, truyền thống yêu nước ở Việt Nam đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là sản phẩm tinh thần, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình lịch sử từ khi có nhà nước, là giá trị cao nhất của các giá trị Việt Nam, là nội lực tinh thần cơ bản của dân tộc Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1. Trong tiến trình lịch sử dựng nước của Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng được hình thành rất sớm, bắt đầu từ cộng đồng người Việt ở Bắc Bộ đã dần dần trở thành tín ngưỡng chung của toàn thể cộng đồng cư dân Đại Việt. Đến khi các vương triều Đại Việt, Việt Nam, Đại Nam tôn nâng Hùng Vương lên thành Quốc Tổ với các nghi lễ thờ cúng mang tính quốc gia, dân tộc, Hùng Vương chính thức trở thành biểu tượng cao nhất của sự thống nhất quốc gia, thống nhất dân tộc, một thước đo bằng vàng của truyền thống yêu nước Việt Nam.

Cách nay hơn 70 năm, trên đường về tiếp quản Thủ đô, dừng chân ở Đền Giếng trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày 19-9-1954, nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Màn nghệ thuật ngợi ca chiến thắng giặc ngoại xâm của quân dân nhà Trần thế kỷ 13 tại Lễ hội đền Cửa Ông (Cẩm Phả, Quảng Ninh).

Màn nghệ thuật ngợi ca chiến thắng giặc ngoại xâm của quân dân nhà Trần thế kỷ 13 tại Lễ hội đền Cửa Ông (Cẩm Phả, Quảng Ninh).

Việt Nam nằm ở vị trí giao tiếp giữa đại lục và đại dương, giữa các luồng đường, luồng hàng, các nền văn hóa và văn minh lớn của nhân loại nên dễ trở thành mục tiêu nhòm ngó, xâm lấn của ngoại bang. Lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam vô cùng đặc biệt, là cơ sở quan trọng bậc nhất tác động đến toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của truyền thống yêu nước Việt Nam. Quá trình phát triển của kinh tế - xã hội quy định những nét đặc thù của tính giai cấp và tính dân tộc; ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo, tín ngưỡng; quá trình giao lưu và hội nhập giữa các không gian văn hóa, các văn hóa sắc tộc, công cuộc thống nhất quốc gia và hình thành dân tộc sớm đều tác động mạnh mẽ đến truyền thống yêu nước Việt Nam, quy định những nội dung cơ bản của truyền thống yêu nước Việt Nam.

2. Truyền thống yêu nước Việt Nam trước hết là tình yêu quê hương, xứ sở; tình yêu thương gia đình, giống nòi; tinh thần cố kết cộng đồng lấy dân làm gốc. Truyền thống yêu nước Việt Nam được biểu hiện tập trung ở ý thức về lịch sử, văn hóa chung, đặc biệt là ý thức rất sâu sắc về toàn vẹn lãnh thổ, về độc lập, tự chủ và tự tôn dân tộc, giống nòi.

Hai Bà Trưng nổi dậy làm nên cuộc khởi nghĩa toàn dân đầu tiên “kinh thiên động địa” chính là để “rửa sạch nước thù”, “dựng lại nghiệp xưa họ Hùng”. Lý Bí đánh đuổi quân Lương, lập nước Vạn Xuân, lên ngôi Hoàng đế (Lý Nam Việt Đế), đặt mình ngang hàng với các Hoàng đế phương Bắc. Ngô Quyền ngay sau đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã kéo đại quân về mở nước, xưng Vương, định đô ở Cổ Loa, khẳng định sự tiếp nối quốc thống từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, trở thành Tổ trung hưng dân tộc. Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên cục diện 12 sứ quân, lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, xây dựng quốc gia thống nhất, độc lập thực sự, nhà nước tập quyền có đầy đủ chủ quyền, khai mở kỷ nguyên văn minh Đại Việt.

Tiếp nối sự nghiệp của nhà Đinh, Lê Hoàn “đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc-Nam vô sự”. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam) ra đời trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất do Lê Hoàn làm Tổng chỉ huy đã trở thành bài thơ Thần ghi dấu chiến công thần kỳ của quân dân nhà Tiền Lê. Lý Thái Tổ sáng lập Vương triều Lý, định đô ở Thăng Long, mở ra nền văn hóa Thăng Long với các vương triều Lý, Trần, Lê rạng rỡ văn trị võ công, mà chiến công vang dội của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai dưới sự chỉ huy thiên tài của Lý Thường Kiệt đã nâng “Nam quốc sơn hà” thời Tiền Lê lên thành Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta.

Quân dân nhà Trần thế kỷ 13, ba lần đại phá quân Mông Nguyên, không chỉ giữ vững toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia Đại Việt mà còn góp phần chấm dứt đại thảm họa Mông Nguyên trên phạm vi thế giới đương thời. Theo Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, sở dĩ quốc gia Đại Việt có được thắng lợi kỳ diệu này là vì “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.

Lê Lợi, Nguyễn Trãi 10 năm “nếm mật nằm gai”, vẫn trên bài học lịch sử lấy dân làm gốc đã làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, “tắt muôn đời chiến tranh”, “mở nền thái bình muôn thuở”. “Bình Ngô đại cáo” - Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc Việt Nam ra đời trong bối cảnh lịch sử này đã khẳng định đanh thép quốc gia Đại Việt vốn có nền văn hiến lâu đời, núi sông, bờ cõi, phong tục, tập quán riêng khác, sánh ngang và hùng cứ một phương giống như các đại cường quốc của thế giới phương Đông.

Anh hùng áo vải đất Tây Sơn Nguyễn Huệ - Quang Trung thần tốc tiến quân ra Bắc: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ. Các mũi tấn công nhằm thẳng vào Ngọc Hồi, Đống Đa, phá tan hệ thống phòng thủ và các cứ điểm then chốt nhất, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi chỉ trong mấy ngày đầu Xuân Kỷ Dậu 1789...

3. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời đã thật sự trở thành một nước tự do, độc lập. “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 là Tuyên ngôn độc lập lần thứ ba, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên văn minh, hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đến khi thực dân Pháp quay lại xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Tinh thần ấy, ý chí ấy đã trở thành nguồn sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi kỳ vĩ của hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ tổng kết thành chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Trước đây, nói đến truyền thống yêu nước, người ta thường chỉ nghĩ đến những hành động anh hùng và những chiến công lừng lẫy chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ toàn vẹn non sông bờ cõi. Truyền thống yêu nước được đồng nhất với hành động anh hùng trong chiến đấu, tinh thần “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Ngày nay, trong điều kiện đất nước hòa bình, dựng xây hùng cường, thịnh vượng, sánh ngang với các cường quốc năm châu, truyền thống yêu nước Việt Nam không thể không đặt ra những yêu cầu của thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc”.

Chưa bao giờ trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chúng ta hội đủ các điều kiện phát triển mạnh mẽ, toàn diện và bền vững đất nước như ngày nay. Truyền thống yêu nước đã và đang trở thành nguồn lực to lớn, mạnh mẽ và quan trọng hơn cả để Việt Nam cất cánh tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

GS, TS, Nhà giáo Nhân dân NGUYỄN QUANG NGỌC, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/bao-xuan-at-ty-2025/yeu-nuoc-dong-chay-bat-tan-cua-lich-su-van-hoa-viet-nam-812886