2.000 tỷ USD tiền mặt của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ
Chờ một chút, không phải ngân hàng vẫn còn 2.000 tỷ đô-la tiền mặt trong tài khoản dự trữ vượt mức của Cục Dự trữ Liên bang sao? Số tiền dự phòng này đã âm thầm nằm đó để ăn theo khoản lãi 0,25% do Cục Dự trữ Liên bang cung cấp.
Sau cuộc khủng hoảng năm 2008, lãi suất chuẩn của các Ngân hàng Trung ương của Vương quốc Anh và Mỹ nhanh chóng giảm xuống 0, nhưng chỉ số Libor đã có lúc cao tới 4%, hoàn toàn “đi riêng một lối” so với lãi suất chuẩn của Ngân hàng Trung ương.
Xét cho cùng, Libor là lãi suất thị trường thuần túy, và các ngân hàng lớn tham gia báo giá cũng gặp khó khăn do tài sản bị thu hẹp và không đủ tiền. Đặc biệt, thị trường Libor vừa phải hứng chịu một đợt “giáng đòn mạnh”, thế nên ít có khả năng các ngân hàng sẽ tiếp tục “bí quá làm liều”, lãi suất Libor sẽ bất đắc dĩ rơi vào thế buộc phải tăng cao.
Bây giờ rắc rối sẽ leo thang!
Trong số các hợp đồng hoán đổi lãi suất với tổng giá trị lên tới 400.000 tỷ đô-la, lãi suất thả nổi về cơ bản bị khóa chặt với lãi suất Libor, và rủi ro tập trung cao độ ở các ngân hàng lớn nhất. Các ngân hàng lớn lâu nay đang kiếm được bộn tiền nên càng thêm phần sa đà.

Khủng hoảng tài chính có thể đến bằng nhiều đường. Ảnh: Bankpak.
Sau khủng hoảng tài chính, giá trị của các hợp đồng hoán đổi lãi suất tăng gấp đôi, lượng hợp đồng mới trị giá 200.000 tỷ đô-la nghiễm nhiên được đem ra đánh cược với các ngân hàng ở mức lãi suất cực thấp. Khi ngân hàng kiểm tra tài khoản, họ bất giác cảm thấy lạnh người: Dòng tiền cố định của các hợp đồng cũ đang bị thu hẹp đáng kể, trong khi các hợp đồng mới thì khiến họ thua thiệt đủ đường.
Đúng như câu nói “vật đổi sao dời”, vận đen rơi vào đầu ai thì kẻ đó phải chịu, điều tệ hại hơn nữa là khi giá trị hợp đồng xuống tới ngưỡng “âm”, ngân hàng sẽ buộc phải “đóng băng” thêm nhiều tài sản hơn, cũng có nghĩa là “đóng băng” cả dòng tiền, vốn đang trong tình trạng thiếu hụt.
Các điều khoản mà giới ngân hàng đã sử dụng [...] giờ đây đã trở thành một sợi dây thòng lọng thắt chặt cổ họ. Tất nhiên, nếu một ngân hàng lớn đủ “xảo quyệt” thì điều kiện như vậy có thể là một “hiệp ước bất bình đẳng”, chỉ áp dụng cho người khác chứ không hạn chế bản thân mình.
Nếu lãi suất tiếp tục tăng cao, thòng lọng quanh cổ các ngân hàng sẽ càng thắt chặt hơn.
Chờ một chút, không phải ngân hàng vẫn còn 2.000 tỷ đô-la tiền mặt trong tài khoản dự trữ vượt mức của Cục Dự trữ Liên bang sao? Số tiền dự phòng này đã âm thầm nằm đó để ăn theo khoản lãi 0,25% do Cục Dự trữ Liên bang cung cấp. Đúng, 2 nghìn tỷ đô-la “tồn tại” trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, nhưng nếu bạn nghĩ rằng các ngân hàng sẽ để một khoản tiền nhàn rỗi khổng lồ ở đó chỉ để ăn khoản lãi ít ỏi, chẳng khác gì bố thí thì bạn nhầm to rồi. “Xác” tiền vẫn còn đó, nhưng “hồn” đã bay ra khỏi bảng cân đối kế toán của ngân hàng từ lâu.
Điều này cũng là do các chuẩn mực kế toán về giao dịch mua lại. Tiền mặt và trái phiếu đều là tài sản cầm cố chất lượng cao. Nếu trái phiếu có chuỗi tái thế chấp thì tiền mặt cũng có. Vụ vỡ nợ hơn 6 tỷ đô-la của JPMorgan năm 2012 thực sự là ví dụ điển hình nhất về việc tự ý chuyển “tiết kiệm thừa” sang thị trường London để đánh cược, tiền tiết kiệm vẫn nằm trên sổ sách nhưng thực tế đã mất từ lâu.
Sự sụp đổ của thị trường hoán đổi lãi suất sẽ gây ra một tác động nghiêm trọng khác. Bản chất của hợp đồng hoán đổi lãi suất tương đương với việc các ngân hàng lớn bán khống lãi suất, nếu thị trường này sụp đổ, núi băng lớn nhất đè lên lãi suất sẽ nhanh chóng tan đi, và lãi suất sẽ tăng vọt, sau đó diễn biến thành một vụ phun trào khủng khiếp của lãi suất.
Đừng nhìn vào giá trái phiếu nữa, chúng chỉ khiến cho các nhà đầu tư trái phiếu bị xuất huyết não mà thôi. Đợt sóng xung kích thứ hai sẽ kích nổ “quả bom khinh khí” hoán đổi lãi suất! Tâm điểm của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 là thị trường hoán đổi vỡ nợ tín dụng. Nhưng đó mới chỉ là một “quả bom nguyên tử” trị giá 60 nghìn tỷ đô-la mà thôi, trong khi quy mô hoạt động hoán đổi lãi suất lớn gấp bảy lần con số đó. Nếu thị trường hoán đổi lãi suất sụp đổ, cuộc khủng hoảng tài chính 2008 sẽ chỉ như món khai vị chẳng bõ dính răng trước bữa tối.
Khi các Ngân hàng Trung ương cố gắng giải cứu các thể chế “quá lớn để sụp đổ” đó, họ nhận thấy rằng mình không còn vũ khí và cũng đã hết đạn dược. Ngân hàng Trung ương có thể in thêm tiền không? Đừng quên rằng chính việc in tiền đã gây ra vụ nổ “bom khinh khí”, có ai còn tin rằng việc in tiền có thể cứu được khủng hoảng?
Vũ khí quan trọng nhất của Ngân hàng Trung ương không phải là quyền in tiền, mà là niềm tin của người dân vào tiền. Không có được lòng tin này, ý nghĩa của quyền lực cũng sẽ mất đi. Ngân hàng Trung ương Đức năm 1923 và Ngân hàng Trung ương của “Trung Hoa Dân Quốc” năm 1949 đều đã chứng minh cho chúng ta thấy hậu quả của việc người dân mất niềm tin đối với tiền tệ.
Làn sóng thứ ba e rằng sẽ bắt đầu với cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với tiền tệ. Nếu việc rút khỏi QE mang tới những rủi ro đáng sợ như vậy, vậy thì hậu quả của việc tiếp tục QE là gì?
Đó là tài sản thế chấp chất lượng cao trên thị trường mua lại sẽ từng bước bị Ngân hàng Trung ương hút kiệt. Trên chuỗi thế chấp mua lại sẽ ngày càng có nhiều màn “xiếc tạp kỹ” gay cấn, một chiếc nắp giờ cần đậy được năm, mười, thậm chí là hai mươi cái chai. Sợi dây cao su mang tên “giao dịch mua lại” vốn đã quá căng giờ lại càng tích tụ lực căng lớn hơn, nếu không đột ngột bị đứt, nó sẽ bật lại và làm người ta bị thương. Thanh khoản cũng sẽ nhanh chóng cạn kiệt khi thị trường mua lại đột ngột đóng băng do tâm lý né tránh rủi ro giữa các đối tác.
Nguồn Znews: https://znews.vn/2000-ty-usd-tien-mat-cua-cuc-du-tru-lien-bang-my-post1558962.html