6 tháng đầu năm, xuất khẩu than mang về 59 triệu USD

Lũy kế 6 tháng đầu năm, xuất khẩu than đạt 211.573 tấn, tương đương hơn 59 triệu USD, tăng nhẹ về lượng nhưng giảm mạnh về giá trị so với cùng kỳ.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu than của Việt Nam trong tháng 6 đạt 98.682 tấn, tương đương 67,8 triệu USD, tăng đột biến tới 9.063% về lượng và tăng 11.000% về giá trị so với tháng trước.

So với tháng 6/2023, xuất khẩu than tháng này giảm 37% về lượng và giảm 50% về giá trị.

Lũy kế 6 tháng đầu năm, xuất khẩu than đạt 211.573 tấn, tương đương hơn 59 triệu USD, tăng 2,1% về lượng nhưng giảm 24,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu bình quân đạt 279 USD/tấn, giảm 25,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Về thị trường, thông tin trên báo Công Thương, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của than Việt Nam trong 2 quý đầu năm, đạt 56.093 tấn, tương đương 15,7 triệu USD, giảm 41% về lượng và giảm 53% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu bình quân đạt 280 USD/tấn, giảm 21% so với cùng kỳ 2023.

Đứng thứ 2 là Philippines, đạt 49.660 tấn, tương đương hơn 11 triệu USD, tăng đột biến 32.571% về lượng và tăng 17.862% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu bình quân đạt 223 USD/tấn, giảm 45% so với cùng kỳ.

Tính riêng tháng 6, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường này 27 nghìn tấn than, tương đương hơn 6 triệu USD. Trong khi đó, đảo quốc này không thực hiện nhập khẩu than trong tháng 6/2023.

Hà Lan là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 trong nửa đầu năm, với 22.843 tấn, trị giá 7,3 triệu USD. Giá xuất khẩu đạt 320 USD/tấn, cao hơn nhiều so với giá bình quân toàn thị trường.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Việc các quốc gia Đông Nam Á tăng cường nhập khẩu là do nhu cầu sử dụng than cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là nhiệt điện ngày càng tăng trong khi thủy điện gặp khó. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, khiến thời tiết nóng lên kỷ lục.

Là quốc gia vốn phụ thuộc rất lớn vào than đá để sản xuất điện, Philippines chủ yếu nhập khẩu mặt hàng này từ Indonesia, phần còn lại nhập khẩu từ Australia và Việt Nam. Theo số liệu của chính phủ, gần 70% trong tổng số 42,5 triệu tấn than tiêu thụ tại Philippines vào năm 2020 là than nhập khẩu.

Bộ Năng lượng Philippines cho biết vào năm 2021, trung bình mỗi tháng quốc gia này nhập khẩu 2,3 triệu tấn từ Indonesia để cung cấp cho các nhà máy điện của mình.

Tuy nhiên, hồi đầu năm 2022, Indonesia ra lệnh cấm xuất khẩu than, khiến Philippines phải xoay sở tìm kiếm các nhà cung cấp khác, trong đó có Việt Nam.

BĐT Đảng Cộng sản Việt Nam thông tin, theo báo cáo mới nhất, Việt Nam là một trong 5 nền kinh tế có mức tiêu thụ than đá cao nhất ở Đông Nam Á. Theo Tổng cục Thống kê, trữ lượng than đá tại Việt Nam có khoảng 50 tỷ tấn. Quảng Ninh là mỏ than quan trọng bậc nhất tại Việt Nam. Các mỏ than tại đây bắt đầu được đưa vào khai thác từ năm 1839. Trữ lượng lên tới 8,7 tỷ tấn cùng vị trí sát biển thuận tiện cho việc vận chuyển than đến thị trường quốc tế đã giúp cho Quảng Ninh trở thành khu vực khai thác than hàng đầu cả nước.

Bộ Công Thương cho biết dự kiến khả năng huy động than tăng trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 đạt từ 43-47 triệu tấn than thương phẩm/năm. Sau đó, giảm dần vào giai đoạn 2035-2045. Theo dự báo, nhu cầu than sẽ ngày càng tăng cao đến năm 2035 từ 94-127 triệu tấn/năm, chủ yếu do sự gia tăng nhu cầu cho sản xuất điện và các ngành kinh tế như xi măng, luyện kim, hóa chất, sau đó sẽ giảm dần còn từ 73-76 triệu tấn vào năm 2045.

Năm ngoái xuất khẩu than giảm mạnh, 11 tháng năm 2023, xuất khẩu than đạt 673.658 tấn, tương đương 211,3 triệu USD, giảm 41,2% về lượng và giảm 46,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Về thị trường, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của than Việt Nam, chiếm 50,4% về lượng và 49% về kim ngạch trong tổng lượng xuất khẩu 11 tháng năm 2023. Đứng phía sau lần lượt là Nam Phi và Hà Lan.

Minh Hoa (t/h)

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/6-thang-dau-nam-xuat-khau-than-mang-ve-59-trieu-usd-204240718114041613.htm