7 giải pháp cần ưu tiên để giải quyết vấn đề cấp thiết với phụ nữ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Thạc sĩ Lê Thị Thùy Linh, Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam, có cuộc trao đổi với PV Báo Phụ nữ Việt Nam xoay quanh vấn đề cần xác định và giải quyết kịp thời vấn đề xã hội với phụ nữ, trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN).

 Thiếu nữ dân tộc Tây Nguyên trong ngày hội

Thiếu nữ dân tộc Tây Nguyên trong ngày hội

Thạc sĩ Lê Thị Thùy Linh

Thạc sĩ Lê Thị Thùy Linh

- Bà có thể khái quát vì sao việc xác định và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội đối với phụ nữ, trẻ em ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi lại đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay?

Việc nhận diện và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ và trẻ em tại vùng DTTS&MN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển công bằng và bền vững của đất nước.

Nhóm đối tượng này có nguy cơ cao rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương do phải đối mặt với nhiều rào cản như bất bình đẳng giới, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, bạo lực gia đình, hạn chế trong tiếp cận giáo dục, y tế và cơ hội việc làm ổn định.

Những rào cản đó không chỉ xâm hại trực tiếp đến quyền con người, sức khỏe và chất lượng cuộc sống, mà còn cản trở sự phát triển toàn diện của cộng đồng.

Ví dụ, các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng tảo hôn khiến nhiều em gái phải bỏ học sớm, mất cơ hội phát triển cá nhân và nghề nghiệp, đồng thời kéo theo những hệ lụy về sức khỏe sinh sản như gia tăng nguy cơ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh.

Hôn nhân cận huyết làm gia tăng các bệnh lý di truyền, đe dọa chất lượng dân số lâu dài. Bạo lực gia đình và định kiến giới tiếp tục hạn chế sự tham gia và đóng góp của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội…

Nếu các vấn đề này không được can thiệp kịp thời, chúng có thể tạo ra vòng luẩn quẩn nghèo đói - bất bình đẳng - chậm phát triển, đồng thời gia tăng khoảng cách giữa các vùng miền.

Ngược lại, nếu có các giải pháp hiệu quả và đúng thời điểm, phụ nữ và trẻ em sẽ được bảo đảm quyền lợi cơ bản, đồng thời có điều kiện phát huy năng lực, tham gia tích cực vào đời sống kinh tế - xã hội, qua đó đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng chung của quốc gia.

Nhà nước và toàn thể xã hội chung tay đảm bảo các quyền cho trẻ em nói chung, trẻ em là người DTTS nói riêng được hưởng thụ những quyền con người cơ bản của trẻ em. Nguồn: VOV2

Nhà nước và toàn thể xã hội chung tay đảm bảo các quyền cho trẻ em nói chung, trẻ em là người DTTS nói riêng được hưởng thụ những quyền con người cơ bản của trẻ em. Nguồn: VOV2

- Theo bà đâu là những thách thức nổi cộm nhất hiện nay đối với phụ nữ, trẻ em vùng DTTS&MN?

Phụ nữ và trẻ em tại các vùng DTTS&MN ở Việt Nam hiện đang đối diện với nhiều thách thức lớn, tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển. Các nghiên cứu của UNICEF, UN Women, cùng số liệu từ các cơ quan trong nước… cho thấy có thể khái quát năm nhóm vấn đề nổi bật.

Trước hết, hạn chế trong tiếp cận giáo dục và đào tạo nghề được xem là một trong những trở ngại căn bản. Do nhiều nguyên nhân mà tỷ lệ học sinh bỏ học, đặc biệt ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình cả nước.

Điều này làm giảm cơ hội học nghề, hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ và tri thức mới, đồng thời đặt trẻ em DTTS nói chung, trẻ em gái nói riêng vào vị thế bất lợi trên thị trường lao động sau này.

Thứ hai, theo nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết mặc dù đã giảm so với trước đây, nhưng vẫn còn phổ biến trong một số cộng đồng DTTS. Thực trạng này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe sinh sản, mà còn làm gia tăng nguy cơ bệnh lý di truyền và tác động lâu dài đến chất lượng dân số, tạo nên những hệ lụy xã hội khó khắc phục.

Thứ ba, bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình là vấn đề đáng lo ngại. Trẻ em gái và phụ nữ DTTS có nguy cơ cao phải đối mặt với các hình thức bạo lực thể chất, tinh thần và kinh tế, nhưng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ lại rất hạn chế.

Thứ tư,hạn chế về năng lực kinh tế: Phần lớn phụ nữ DTTS tham gia lao động phi chính thức với thu nhập thấp, thiếu kiến thức, hạn chế về tư liệu sản xuất, hạn chế về vốn và kỹ năng kinh doanh.

Bên cạnh đó, điều này cũng làm gia tăng xu hướng di cư lao động tự do nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm mới, xu hướng này tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có nguy cơ mất an sinh xã hội và gia tăng bạo lực giới.

Cuối cùng, yếu tố địa lý và hạ tầng là những bất lợi kép đối với phụ nữ và trẻ em vùng DTTS. Địa hình miền núi hiểm trở cùng hệ thống giao thông hạn chế làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ công, thị trường và thông tin.

Ví dụ, trong lĩnh vực y tế, rào cản về truyền thống, khoảng cách, thiếu nhân lực và ngôn ngữ khiến nhiều phụ nữ không được chăm sóc sức khỏe cơ bản, dẫn đến tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong sơ sinh và tình trạng suy dinh dưỡng, thấp còi ở trẻ em cao hơn so với mặt bằng chung cả nước.

Có thể thấy, các thách thức trên không tồn tại riêng rẽ mà đan xen, cộng hưởng, tạo thành vòng luẩn quẩn của nghèo đói và bất bình đẳng. Do đó, cần triển khai những giải pháp tổng thể, bền vững, kết hợp giữa chính sách nhà nước, sự tham gia của cộng đồng và sự hỗ trợ từ các tổ chức xã hội – nhằm bảo đảm quyền lợi và mở rộng cơ hội phát triển toàn diện cho phụ nữ và trẻ em vùng DTTS&MN.

- Theo bà nếu những vấn đề này không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra hệ lụy như thế nào đối với sự phát triển chung của đất nước?

Tôi nghĩ nếu những vấn đề này không được giải quyết kịp thời thì hệ lụy là rất nghiêm trọng và mang tính đa chiều.

Thiếu nữ dân tộc M’Nông trong ngày hội

Thiếu nữ dân tộc M’Nông trong ngày hội

Trước hết, bất bình đẳng giới nếu còn tồn tại sẽ duy trì vòng luẩn quẩn nghèo đói, gây mất gắn kết cộng đồng, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, từ đó làm suy giảm năng lực kinh tế. Khi phụ nữ không được tiếp cận đầy đủ giáo dục, nghề nghiệp và cơ hội phát triển, nguồn nhân lực bị lãng phí, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh suy giảm.

Bên cạnh đó, định kiến giới, bạo lực gia đình và hôn nhân sớm khiến phụ nữ và trẻ em bị tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần, làm suy yếu cấu trúc gia đình và cộng đồng. Đây không chỉ là nỗi đau cá nhân mà còn tạo ra gánh nặng y tế, pháp lý và kinh tế cho toàn xã hội.

Trong lĩnh vực y tế, rào cản truyền thống, địa lý và thiếu dịch vụ chăm sóc dẫn đến tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong sơ sinh, suy dinh dưỡng và bệnh tật ở trẻ em vùng DTTS. Chất lượng dân số vì thế bị đe dọa nghiêm trọng.

Giáo dục và phát triển nhân lực cũng là thách thức lớn. Hệ thống trường học tại nhiều khu vực miền núi còn hạn chế về cơ sở vật chất, sự đa dạng về tài liệu học tập… làm giảm đi động lực học tập, cơ hội phát triển bản thân, hạn chế kỹ năng lao động và tiếp tục duy trì chu kỳ nghèo đói.

Những bất lợi kép về kinh tế, giáo dục, sức khỏe và giới tính đã và đang làm sâu sắc thêm khoảng cách phát triển giữa vùng DTTS - miền núi với phần còn lại của đất nước. Nếu không được xử lý, đây sẽ là rào cản lớn trên con đường Việt Nam hướng tới một xã hội thịnh vượng, công bằng và phát triển bền vững.

- Vậy theo chị, đâu là những giải pháp cần ưu tiên để giải quyết các vấn đề xã hội cấp thiết này một cách hiệu quả và bền vững?

Tôi cho rằng cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó có một số ưu tiên nổi bật.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức và xóa bỏ định kiến giới. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục cộng đồng cần được đẩy mạnh nhằm thay đổi quan niệm lạc hậu, tạo sự chuyển biến tích cực trong việc tôn trọng và thúc đẩy quyền, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái.

Thứ hai, phát triển giáo dục và đào tạo nghề. Việc mở rộng cơ hội học tập, xây dựng chương trình đào tạo nghề phù hợp với điều kiện thực tiễn vùng miền sẽ giúp phụ nữ và trẻ em gái trang bị kỹ năng cần thiết, tăng cường năng lực tham gia thị trường lao động.

Thứ ba, cải thiện hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe. Cần mở rộng mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt chú trọng chăm sóc sức khỏe sinh sản, từ đó giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ em.

Thứ tư, hỗ trợ pháp lý và bảo vệ quyền lợi. Các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn bạo lực gia đình, tảo hôn và buôn bán người cần được tăng cường. Đồng thời, phụ nữ cần được khuyến khích và tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn pháp lý.

Thứ năm, phát triển kinh tế và sinh kế bền vững. Việc tạo cơ hội việc làm, hỗ trợ tài chính, kết nối thị trường và khuyến khích phụ nữ tham gia phát triển kinh tế gia đình, cộng đồng là nền tảng quan trọng để nâng cao mức sống.

Thứ sáu, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào quá trình ra quyết định. Cần bảo đảm tiếng nói của phụ nữ dân tộc thiểu số trong việc hoạch định và triển khai các chính sách, chương trình phát triển tại địa phương.

Thứ bảy, nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở. Việc đào tạo chuyên sâu cho cán bộ cơ sở, đặc biệt là cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ và các cán bộ xã hội tại vùng miền núi là rất cần thiết, nhằm giúp họ có đủ kiến thức, kỹ năng và sự thấu hiểu đặc thù văn hóa – xã hội của cộng đồng.

Các giải pháp trên chỉ có thể phát huy hiệu quả tối đa khi được triển khai đồng bộ, linh hoạt và gắn với đặc thù văn hóa địa phương. Đồng thời, cần có sự tham gia chặt chẽ của chính quyền, các tổ chức xã hội và chính cộng đồng để tạo nên sự thay đổi thiết thực, bền vững và công bằng cho phụ nữ và trẻ em DTTS.

- Trân trọng cảm ơn chị!

Trường Lê (thực hiện)

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/7-giai-phap-can-uu-tien-de-giai-quyet-van-de-cap-thiet-voi-phu-nu-tre-em-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-20250819155341903.htm