80 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền: Từ nền móng lập hiến đến những quyết sách đột phá

80 năm trước, bản Hiến pháp 1946 đặt viên gạch đầu tiên cho một Nhà nước pháp quyền 'của dân, do dân, vì dân'. Tinh thần lập hiến hiện đại đề cao quyền con người, quyền công dân, phân định thẩm quyền nhà nước đã tạo chuẩn mực để các bản Hiến pháp sau này kế thừa, phát triển và thích ứng với bối cảnh mới của đất nước.

Viên gạch vững chãi đầu tiên

Ngày 9/11/1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp đầu tiên, đặt nền tảng “của dân, do dân, vì dân”, đặt chủ quyền thuộc về Nhân dân và xác lập cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước theo hướng phân công, phối hợp giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tinh thần pháp quyền thể hiện ở việc hiến định các quyền, tự do cơ bản của công dân (tín ngưỡng, ngôn luận, báo chí, cư trú…), nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo đảm thủ tục pháp lý trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Kỹ thuật lập hiến của bản Hiến pháp đầu tiên mạch lạc, ngắn gọn, chú trọng tính khả thi, đồng thời xác lập trật tự nhà nước thống nhất, có kỷ luật tổ chức và cơ chế trách nhiệm. Dù bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, Hiến pháp 1946 vẫn mở ra chuẩn mực quản trị mới: quyền lực nhà nước phải được giới hạn bởi luật pháp; thiết chế đại diện do Nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân; tư pháp độc lập để bảo vệ công lý. Những nguyên tắc cốt lõi ấy trở thành trục tham chiếu cho các lần sửa đổi Hiến pháp và cải cách thể chế về sau.

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả đánh giá Hiến pháp 1946 mang đậm “hơi thở lập hiến”, tiếp cận quyền con người sớm và rõ, tạo khung tham chiếu cho chặng đường pháp lý tiếp theo. Từ nền móng của Hiến pháp 1946, tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đi qua nhiều cột mốc: hệ thống pháp luật được hoàn thiện; bộ máy hành chính từng bước cải cách; tư pháp khẳng định vai trò bảo vệ công lý, quyền con người; và đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cách thức quản trị mới dựa trên dữ liệu và công nghệ.

Qua các lần sửa đổi (1959, 1980, 1992, 2013), thiết kế quyền lực Nhà nước, cơ chế bảo đảm quyền và phương thức quản trị được điều chỉnh để phù hợp bối cảnh mới.

Cách nhìn hệ thống về lịch sử lập hiến cho thấy một trục phát triển nhất quán: đặt con người ở trung tâm, dùng luật pháp để “giới hạn quyền lực và mở rộng quyền”, nâng độ minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Bối cảnh hôm nay tạo ra yêu cầu mới: Nhà nước phải chuyển từ điều hành dựa trên chỉ thị giấy tờ sang quản trị dựa trên dữ liệu; từ thủ tục giấy sang dịch vụ công số; từ ban hành nhiều luật sang luật khả thi, thi hành nghiêm, đo lường được kết quả.

Có thể thấy, bên cạnh lập hiến, công cuộc hoàn thiện bộ máy hành chính - tư pháp liên tục được đẩy mạnh. Gần đây, dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) được đăng công khai để lấy ý kiến, theo hướng tinh gọn cấu trúc, làm rõ vai trò Chính phủ, Thủ tướng, thành viên Chính phủ; chuẩn hóa phân cấp, phân quyền; đồng thời tạo điều kiện cho điều hành số.

Về tư pháp, trọng tâm những năm gần đây chuyển từ “ban hành nhiều” sang thi hành hiệu quả: đánh giá tác động thực chất, hướng dẫn kịp thời, theo dõi, đánh giá sau ban hành, gắn trách nhiệm người đứng đầu. Nền tảng thể chế từ các luật tổ chức, luật ban hành văn bản… đang được cập nhật theo hướng ít tầng nấc, rõ thẩm quyền, có địa chỉ trách nhiệm, chuẩn bị cho bước phát triển mới của Nhà nước pháp quyền.

Bước đột phá từ những quyết sách

Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã ngày càng thống nhất; hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa lập pháp - hành pháp - tư pháp rõ hơn; bộ máy hành chính từng bước tinh gọn; quyền con người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa và thực thi tốt hơn; cải cách hành chính, cải cách tư pháp có chuyển biến.

Sự cần thiết của các quyết sách càng được thể hiện rõ trong giai đoạn Việt Nam chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư lao động sang tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo. (Ảnh minh họa: AN)

Tuy nhiên, nhiều “nút thắt” còn tồn tại: văn bản chồng chéo, mâu thuẫn; tư duy làm luật thiên về quản lý hơn kiến tạo; phân cấp, phân quyền chưa đi đôi với trách nhiệm và nguồn lực; khâu tổ chức thi hành pháp luật còn yếu; phản ứng chính sách chưa kịp thời trước những vấn đề mới của kỷ nguyên số, kinh tế xanh, kinh tế dữ liệu... Bối cảnh ấy đòi hỏi những quyết sách mang tính cấu trúc lại quy trình làm luật và thi hành luật, đồng thời nâng năng lực quản trị bằng dữ liệu.

Nghị quyết số 27-NQ/TW ra đời vào ngày 09/11/2022 đã xác định mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng 2045. Trọng tâm của Nghị quyết bao gồm: Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; kiểm soát quyền lực; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; thúc đẩy chuyển đổi số trong quản trị nhà nước.

Nghị quyết 27 đồng thời yêu cầu khắc phục chồng chéo, nâng chất lượng văn bản quy phạm, tăng kiểm tra giám sát và tổ chức thi hành nghiêm minh để chuẩn mực pháp lý thực sự đi vào đời sống.

Nếu như Nghị quyết 27 được các chuyên gia xem như “bản vẽ tổng thể” về cấu trúc của Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới, thì việc ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW vào ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị đặt lại chuẩn mực cho chu trình làm luật và thi hành luật. Theo đó, việc xây dựng chính sách phải đánh giá tác động thực chất; văn bản ban hành phải kịp thời, thống nhất, khả thi; trách nhiệm thi hành có địa chỉ rõ ràng; toàn bộ chính sách pháp luật được số hóa để nâng minh bạch, giảm chi phí tuân thủ, tăng trách nhiệm giải trình. Nghị quyết 66 cũng nhấn mạnh yêu cầu bám sát thực tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, coi thể chế pháp luật là lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong kỷ nguyên mới.

Ngay sau Nghị quyết 66, Chính phủ ban hành Nghị quyết 140/NQ-CP ban hành ngày 17/5/2025 về Chương trình hành động triển khai, phân công cụ thể nhiệm vụ, tiến độ, trách nhiệm cho từng cơ quan trong cả hai khâu: xây dựng và thi hành pháp luật. Đây là “cầu nối” để tinh thần của Nghị quyết 66 trở thành công việc cụ thể, hạn chế thực trạng chậm thi hành pháp luật.

Trên bình diện hạ tầng, Nghị quyết 214/NQ-CP ban hành ngày 23/7/2025 về kế hoạch hành động tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện đóng vai trò cầu nối dữ liệu cho cả khâu hoạch định lẫn thi hành pháp luật. Khi dữ liệu được chuẩn hóa, liên thông, dùng lại nhiều lần, cơ quan nhà nước có thể theo dõi mức độ tuân thủ, đánh giá hiệu quả chính sách theo thời gian thực, phát hiện sớm bất cập để điều chỉnh.

Năm 2024, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) ghi nhận hơn một tỷ giao dịch, bình quân hàng triệu giao dịch mỗi ngày, chỉ dấu cho thấy quản trị bằng dữ liệu đã trở thành phương thức vận hành chứ không chỉ là khẩu hiệu. Đây cũng là điều kiện để Nghị quyết 27 và 66 có đất thực thi: quy trình số, dữ liệu mở, truy vết được quyết định công vụ và đo lường được kết quả phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Nhìn tổng thể, hai Nghị quyết tạo thành hai tầng bổ trợ. Tầng thứ nhất, theo Nghị quyết 27, là kiến trúc Nhà nước pháp quyền: Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; kiểm soát quyền lực; tư pháp liêm chính, hiện đại; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; chuyển đổi số trong quản trị. Tầng thứ hai, theo Nghị quyết 66, là động cơ vận hành kiến trúc ấy: Chuẩn mực kỹ thuật lập pháp; quy trình soạn thảo tập trung, chuyên nghiệp; thiết kế cơ chế tổ chức thi hành có trách nhiệm, có đo lường; số hóa toàn bộ chu trình; phản ứng chính sách nhanh với hiện tượng mới (AI, kinh tế dữ liệu, thị trường carbon, fintech…).

Sự cần thiết của hai quyết sách ấy càng được thể hiện rõ trong giai đoạn Việt Nam chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư lao động sang tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo. Dĩ nhiên, quyết sách chỉ phát huy khi khâu thi hành được triển khai tích cực. Điều này phụ thuộc vào kỷ luật thực thi và nguồn nhân lực pháp luật đủ chuyên nghiệp, được đào tạo, đãi ngộ tương xứng.

Từ nền móng Hiến pháp 1946 đến những quyết sách hôm nay, mọi thay đổi về chính sách của Nhà nước pháp quyền Việt Nam vẫn luôn giữ vững trục phát triển đặt con người ở trung tâm và giới hạn quyền lực bằng pháp luật, bằng dữ liệu, để phục vụ Nhân dân tốt hơn. Đích đến của sự đổi thay chính là một hệ thống văn bản đầy đủ, một đời sống pháp quyền mạch lạc, nơi mỗi quyết định công được đo lường, mỗi quyền của người dân được bảo đảm và mỗi cơ hội phát triển được mở ra bằng minh bạch và trách nhiệm.

Ngọc Mai

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/80-nam-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-tu-nen-mong-lap-hien-den-nhung-quyet-sach-dot-pha.html