AI làm nóng cuộc đua giành những hợp đồng quốc phòng
Các công ty công nghệ lớn nhất ở Thung lũng Silicon đang từ bỏ chính sách an toàn về trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm hy vọng giành được những hợp đồng với Lầu Năm Góc, đưa AI thâm nhập sâu hơn vào thực tế chiến trường.
Đón đầu làn sóng chi tiêu quốc phòng mới
Hồi cuối tháng 4 vừa qua, khi Tổng thống Donald Trump đã đề xuất một ngân sách quốc phòng lên tới 1,01 nghìn tỷ USD cho năm tài chính 2026, mức lớn nhất trong lịch sử. Dù vẫn đang trong quá trình xem xét tại Quốc hội, đề xuất từ Nhà Trắng đã cho thấy rõ các ưu tiên chiến lược mà chính quyền Tổng thống Trump hướng đến, với một trong những trọng điểm là hiện đại hóa vũ khí công nghệ cao thông qua đầu tư cho trí tuệ nhân tạo (AI).

Bộ Quốc phòng Mỹ đã trao cho OpenAI một hợp đồng trị giá 200 triệu USD để đưa AI vào sử dụng cho quân đội nước này.
Trước những diễn biến này, các công ty công nghệ lớn (Big Tech) tại Mỹ đã từ bỏ nhiều năm áp dụng chính sách không can dự vào lĩnh vực quân sự để tìm kiếm các hợp đồng quốc phòng béo bở cùng mối quan hệ sâu sắc hơn với Lầu Năm Góc. Kết quả mới nhất của sự thay đổi ấy là việc Bộ Quốc phòng Mỹ hôm 16/6 đã trao cho OpenAI một hợp đồng trị giá 200 triệu USD để đưa AI vào sử dụng cho quân đội nước này.
Theo thông báo về các hợp đồng đã trúng thầu mà Bộ Quốc phòng Mỹ công bố, OpenAI sẽ “phát triển các năng lực AI tiên tiến để giải quyết các thách thức an ninh quốc gia quan trọng trong cả lĩnh vực chiến tranh và doanh nghiệp”. Trong khi đó, OpenAI cho biết chương trình với Bộ Quốc phòng Mỹ là quan hệ đối tác đầu tiên theo sáng kiến của Big Tech có trụ sở tại San Francisco này nhằm tích hợp AI vào các hoạt động của chính phủ.
Theo một bài đăng trên blog, OpenAI có kế hoạch chứng minh những mô hình AI tiên tiến có thể cải thiện đáng kể các hoạt động hành chính như cách quân nhân được chăm sóc sức khỏe và cả cách thức triển khai phòng thủ mạng.
Các Big Tech ngày càng cung cấp nhiều công cụ của mình cho quân đội Mỹ. Ngoài OpenAI còn có Meta và Palantir, công ty AI quốc phòng do “phù thủy” công nghệ Peter Thiel sáng lập. Vào cuối năm ngoái, OpenAI và công ty khởi nghiệp công nghệ quốc phòng Anduril Industries cũng đã công bố quan hệ đối tác để phát triển và triển khai các giải pháp AI “cho các nhiệm vụ an ninh”. Liên minh này kết hợp các mô hình OpenAI và nền tảng công nghệ quân sự của Anduril để tăng cường khả năng phòng thủ chống lại máy bay không người lái và các hệ thống máy bay không người lái khác.
“OpenAI xây dựng AI để mang lại lợi ích cho càng nhiều người càng tốt và hỗ trợ các nỗ lực do Mỹ dẫn đầu nhằm đảm bảo công nghệ này duy trì các giá trị dân chủ”, Giám đốc điều hành của OpenAI, Sam Altman, cho biết vào thời điểm đó.

Lễ nhậm chức sĩ quan dự bị Quân đội Mỹ của các giám đốc công nghệ tại Căn cứ Myer-Henderson Hall ngày 13/6/2025.
Bản thân OpenAI hồi tháng 1/2024 đã lặng lẽ xóa bỏ nội dung cấm sử dụng công nghệ của mình cho mục đích quân sự khỏi chính sách sử dụng, chính sách này nhằm chỉ rõ mức độ sử dụng các công cụ AI mạnh mẽ và cực kỳ phổ biến như ChatGPT. Những điều chỉnh này có thể xem như sự mở đường cho việc Open AI giành được hợp đồng từ Lầu Năm Góc cũng như đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược của họ cho cuộc đua giành những hợp đồng béo bở hơn nữa từ quân đội Mỹ. Và, không chỉ riêng OpenAI làm vậy. Midas Project, một tổ chức phi lợi nhuận theo dõi các thay đổi chính sách tại các công ty AI lớn, đã ghi nhận khoảng 30 sửa đổi đáng kể đối với các hướng dẫn đạo đức kể từ năm 2023.
Sự đảo ngược khó tránh khỏi
Sự bùng nổ của AI những năm qua đã mang đến những thay đổi trong công nghiệp quốc phòng cũng như sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trên chiến trường. Chẳng hạn như trong cuộc xung đột Nga - Ukraine, các đơn vị máy bay không người lái (UAV) được tích hợp những công cụ AI đã phát huy hiệu quả mạnh mẽ, khiến những đơn vị tăng, thiết giáp gần như phải thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận chiến trường.
Tại Gaza, những thiết bị trinh sát không người lái có tích hợp AI của quân đội Israel cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm những chiến binh Hamas đang lẩn trốn trong các đường hầm dưới lòng đất. Khả năng xử lý dữ liệu lớn cho phép những drone này vừa tìm kiếm vừa lập bản đồ các khu vực mà chúng thâm nhập, giúp Israel nắm rõ hơn hệ thống địa đạo chằng chịt dài gần 500 km của Hamas.
Tại Mỹ, mối quan hệ giữa Thung lũng Silicon và quân đội không phải là mới. Nguồn tài trợ của Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng tiên tiến (DARPA) đã giúp tạo ra internet, GPS và thậm chí cả Siri. Trong nhiều thập kỷ, nghiên cứu quân sự đã chuyển sang các ứng dụng dân sự: Lầu Năm Góc phát triển công nghệ và các công ty đã thương mại hóa nó để sử dụng hàng ngày.
Nhưng trong nhiều năm, dòng chảy ngược hầu như không tồn tại. Khi các công ty công nghệ cố gắng hợp tác với quân đội, nhân viên của họ đã nổi loạn. Nhân viên Google đã tổ chức các cuộc biểu tình chưa từng có về “Dự án Maven”, một chương trình của Lầu Năm Góc sử dụng AI để phân tích cảnh quay từ UAV. Gần 5.000 nhân viên đã ký đơn yêu cầu công ty hủy hợp đồng và hàng chục người đã từ chức.

Một chiếc tiêm kích Gripen-E do AI điều khiển đang tiến hành thử nghiệm chiến đấu chống lại một chiếc khác do con người lái.
Phản ứng dữ dội đã có hiệu quả. Google đã không gia hạn hợp đồng với “Dự án Maven” và thiết lập các nguyên tắc AI hạn chế các ứng dụng quân sự. Trong nhiều năm sau đó, các Big Tech vẫn duy trì chính sách chống phát triển vũ khí. Nhưng sự phản kháng đó sụp đổ khi nền kinh tế AI trở nên không bền vững. Việc đào tạo và chạy các mô hình ngôn ngữ lớn tốn hàng trăm triệu, thậm chí cả tỷ USD và doanh thu của người tiêu dùng không thể trang trải các hóa đơn. Đối với nhiều công ty, làm việc với quân đội không chỉ là một cơ hội, mà có thể là điều cần thiết để tồn tại.
Biểu tượng nổi bật nhất của quan hệ đối tác này đã diễn ra vào ngày 13/6, khi các giám đốc điều hành hàng đầu của Thung lũng Silicon thực sự sẽ mặc quân phục của Quân đội Mỹ. Giám đốc công nghệ của Meta, Andrew Bosworth; Giám đốc công nghệ của Palantir, Shyam Sankar và các giám đốc điều hành của OpenAI là Kevin Weil và Bob McGrew sẽ tuyên thệ nhậm chức trung tá trong chương trình “Detachment 201”, tức Biệt đội 201” - một phần của sáng kiến chuyển đổi toàn quân đội Mỹ “nhằm mục đích làm cho lực lượng tinh gọn hơn, thông minh hơn và nguy hiểm hơn”.
Những sĩ quan dự bị đặc biệt này sẽ phục vụ khoảng 120 giờ một năm, tư vấn về các hệ thống chạy bằng AI và hỗ trợ Bộ Quốc phòng trong việc tuyển dụng các chuyên gia công nghệ cao khác. Họ sẽ được miễn đào tạo cơ bản và được linh hoạt hơn so với những người dự bị thông thường để làm việc từ xa. Và, do vị thế rất cao của họ trong khu vực tư nhân, mỗi người sẽ giữ cấp bậc trung tá, qua đó có thể đảm nhiệm ngay các vai trò lãnh đạo cấp cao trong những dự án của quân đội.
“Chúng ta cần phải hành động nhanh hơn, và đó chính xác là những gì chúng ta đang làm ở đây", Tướng Randy George, tham mưu trưởng Lục quân, nói với tờ The Wall Street Journal trong buổi lễ nhậm chức của các sĩ quan dự bị đặc biệt kể trên. Động thái này tạo ra mức độ tích hợp chưa từng có giữa các công ty tư nhân và quân đội. Các giám đốc điều hành sẽ không làm việc trên các dự án liên quan đến chủ lao động của họ, nhưng họ sẽ trực tiếp tham dự vào chiến lược quân sự trong khi các công ty của họ cạnh tranh để giành được những hợp đồng quốc phòng lớn.
Xu thế toàn cầu
Việc các ông lớn về AI bắt tay với quân đội cũng không phải điều mới mẻ trên thế giới, thậm chí Thung lũng Silicon còn đi sau một số nơi. Helsing - một công ty công nghệ quốc phòng có trụ sở tại Munich (Đức), đã ký nhiều hợp đồng xây dựng cơ sở hạ tầng AI cho không quân các nước. Trong đó có thể kể đến chương trình nâng cấp Chiến tranh điện tử cho tiêm kích Eurofighter của Đức hay cơ sở hạ tầng AI cho Hệ thống Không quân Chiến đấu Tương lai - một sáng kiến chung đa quốc gia giữa Đức, Pháp và Tây Ban Nha.

Viễn cảnh về một cuộc chiến giữa những người máy không còn quá xa vời.
Vào tháng 5/2025, Helsing đã phát triển “Dự án Beyond” nhằm thử nghiệm tác nhân AI trong tình huống không chiến ngoài đời thực. Họ đã cho một chiếc tiêm kích Gripen-E do AI điều khiển chống lại một chiếc Gripen-D do con người cầm lái trong tình huống không chiến ngoài tầm nhìn. Đây được coi là trường hợp đầu tiên được công chúng biết đến về AI điều khiển một máy bay chiến đấu hoạt động hoàn toàn.
Tại Hội nghị thượng đỉnh hành động AI năm 2025 ở Paris, Helsing cũng từng công bố sự hợp tác với Mistral AI để tạo ra cái mà công ty này gọi là các mô hình AI “tầm nhìn - ngôn ngữ - hành động” cho nền tảng phòng thủ của họ, cho phép nền tảng này hiểu được môi trường xung quanh, tương tác với người điều khiển UAV và đưa ra quyết định nhanh hơn trong các tình huống phức tạp.
Tháng trước, Meta và Anduril đã công bố họ đang hợp tác để chế tạo tai nghe thực tế tăng cường cho binh lính Mỹ, bắt đầu bằng công nghệ cung cấp thông tin tình báo chiến trường theo thời gian thực thông qua màn hình hiển thị. Các thiết bị sẽ dựa trên mô hình AI Llama của Meta và phần mềm chỉ huy và điều khiển của Anduril. Theo CEO của Anduril, mục tiêu là “biến chiến binh thành những người điều khiển công nghệ” .
Các nhà thầu quốc phòng truyền thống của châu Âu như Thales hay BEA Systems cũng đang tích cực đầu tư và phát triển các dự án AI tiên tiến để nâng cao khả năng cho vũ khí. Chẳng hạn, Thales đã được chọn để dẫn dắt dự án “Artificial Intelligence Deployable Agent (AIDA)”, được tài trợ bởi Quỹ Quốc phòng Châu Âu (EDF). Dự án này nhằm mục đích phát triển AI tự chủ cho hệ thống phòng thủ mạng nhúng trên máy bay, tập trung vào hiệu quả, an ninh mạng và khả năng thích ứng trong các môi trường quan trọng.
BAE Systems thì đang tập trung vào việc phát triển khả năng tự chủ chiến thuật vượt trội cho các nhiệm vụ không chiến ngoài tầm nhìn, sử dụng các máy bay F-16 làm nền tảng thử nghiệm.
Cùng với sự phát triển vũ bão của AI, những chương trình tích hợp trí tuệ nhân tạo vào vũ khí chắc chắn còn nở rộ. Và, viễn cảnh về một cuộc chiến giữa những người máy, như trong phim viễn tưởng của Hollywood, sẽ ngày càng khả thi hơn.