Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu - Chiến sĩ quân báo mưu trí, dũng cảm
Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Để làm nên chiến thắng lừng lẫy đó là sự đoàn kết, góp sức của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. Trong đó, có nhiều tấm gương dũng cảm, mưu trí 'gan không núng, chí không mòn'… Đồng chí Dương Quảng Châu – người con quê hương Hưng Yên là một trong những người đã có nhiều thành tích xuất sắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ông Dương Vũ Dương, con trai Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu ở xã Thành Công (thành phố Phổ Yên, Thái Nguyên) cho biết: Qua lời kể của bố tôi lúc sinh thời, tôi được biết: Bố tôi sinh ra ở thôn An Châu, xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên (nay thuộc xã Hoàng Hanh, thành phố Hưng Yên). Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do hoàn cảnh cùng cực, đói khổ, bố tôi và gia đình phải bỏ làng lên Thái Nguyên làm thuê. Sống trong cảnh lầm than, cơ cực đó, bố tôi luôn mong muốn được góp sức mình đánh đuổi kẻ thù, giành độc lập, tự do cho đất nước. Năm 1948, bố tôi nhập ngũ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đã tham gia từ chiến dịch Biên giới đến chiến dịch Điện Biên Phủ. Là một chiến sĩ quân báo, ông luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí tiếp cận mục tiêu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến đấu thắng lợi. Nhiều lần ông chiến đấu thoát vòng vây, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch…
Theo lời kể của ông Dương Vũ Dương và những tư liệu trong các cuốn sách: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Hưng Yên thời đại Hồ Chí Minh; Anh hùng Điện Biên Phủ, đồng chí Dương Quảng Châu (tức Dương Ngọc Chiến) sinh năm 1929. Năm 1948, đồng chí Dương Quảng Châu gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam, lúc đầu hoạt động trong lực lượng bộ đội địa phương, sau đó chuyển về Đại đội Quân báo thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308.
Trong Chiến dịch Biên giới Thu – Đông năm 1950, trên đường hành quân từ Thất Khê phát hiện tàn binh địch, đồng chí đã tổ chức bao vây, vừa nổ súng uy hiếp vừa gọi hàng bắt được 4 tù binh. Khi đang chuẩn bị đánh trận Nậm Ngà, một đại đội địch ập đến, đồng chí chỉ huy anh em nấp vào các gốc cây bắn trả quyết liệt. Sau đó, đơn vị thực hiện tấn công bao vây địch. Lợi dụng lúc địch nhốn nháo, đồng chí bắt 1 tù binh, rồi bắt tù binh này gọi hàng được 46 tù binh khác, thu 43 khẩu súng.
Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ, một lần đơn vị đồng chí đi làm nhiệm vụ, còn đồng chí và 1 đồng đội đang bị sốt nằm ở lại. Đến trưa, khi cơn sốt vừa dứt, đồng chí đang lau chùi súng thì bỗng nhìn thấy một toán địch đi từ hướng Lai Châu về. Nhanh chóng phán đoán đây là toán tàn binh bị quân ta đánh hôm trước, đồng chí liền nghi binh, rồi một mình lao ra chặn bắt được 22 tên, thu 8 khẩu súng. Ngày hôm sau, đồng chí dẫn đầu 1 tổ lùng bắt được 10 tên nữa.
Trong đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn 36 được giao nhiệm vụ đánh cứ điểm 206 do Đại đội 4 Âu-Phi được trang bị hỏa lực mạnh đóng giữ. Trung đoàn 36 xác định xây dựng trận địa đánh cứ điểm 206 theo chiến thuật vây lấn. Trung đoàn 36 tổ chức đào các chiến hào. Khi chiến hào đào được khoảng 300 mét thì địch phát hiện được và bắt đầu đối phó. Chúng dùng pháo binh, súng cối bắn chặn. Sáng ngày 19/4/1954, trận địa của Trung đoàn 36 hình thành ba mũi đều đã áp sát hàng rào cứ điểm 206. Nếu để mất cứ điểm 206 tức là sẽ mất toàn bộ sân bay Mường Thanh. Vì vậy, quân địch kiên quyết giữ cứ điểm, chúng đã chiếm được khoảng 50 mét chiến hào. Những tên lính lê dương hùng hục dùng xẻng, cuốc, thuốc nổ lấp chiến hào của quân ta. Lúc này, Dương Quảng Châu và tiểu đội quân báo cùng một trung đội bảo vệ trận địa thuộc Đại đội 395 đã anh dũng bám chặt những đoạn hào phía sau, đánh trả địch quyết liệt. Một quả pháo nổ gần làm Dương Quảng Châu bị gãy chân, không đi lại được, nhưng đồng chí vẫn nằm tại chỗ bình tĩnh giao nhiệm vụ cho tổ và động viên anh em chiến đấu, giữ vững trận địa... Đêm ngày 22/4/1954, Trung đoàn được lệnh tiến công. Ngay từ loạt pháo đầu tiên, ta đã đánh trúng hầm chỉ huy và hầm thông tin, cắt đứt liên lạc của địch với tập đoàn cứ điểm, tạo điều kiện cho bộ binh ta từ 3 hướng tiến công vào trung tâm cứ điểm địch. Đến 2 giờ 10 phút ngày 23/4/1954, ta tiêu diệt và bắt toàn bộ quân địch, làm chủ hoàn toàn cứ điểm 206. Thắng lợi của trận đánh này đã tạo điều kiện cho các lực lượng của ta thắt chặt vòng vây, tạo thế cho chiến dịch phát triển chuyển sang đợt 3, tổng công kích, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, kết thúc chiến dịch.
Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, ngày 7/5/1956, đồng chí Dương Quảng Châu được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng khác.
Hiện nay, tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ, chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu được treo trang trọng cùng với các chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khác trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tìm hiểu về tấm gương anh dũng của các đồng chí, chúng tôi thêm tự hào về người con quê hương xứ Nhãn nói riêng và các anh hùng, chiến sĩ Điện Biên Phủ nói chung.
Ông Dương Vũ Dương, con trai Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu cho biết: Tấm gương dũng cảm của bố tôi là động lực để các con, các cháu hôm nay phát huy truyền thống gia đình nỗ lực vươn lên trong học tập, lao động, công tác...
70 năm đã trôi qua, âm vang của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn mãi. Thế hệ sau mãi trân trọng những cống hiến, hy sinh của bao lớp người để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc.