Anh, Pháp chật vật vì nợ công, nhưng Mỹ mới là 'quả bom hẹn giờ' đáng lo nhất
Gánh nặng nợ công của Anh và Pháp từng khiến chính phủ sụp đổ và thị trường tài chính biến động mạnh. Nhưng so với hai nước này, Mỹ là mối nguy lớn hơn nhiều. Núi nợ công khổng lồ đang biến Mỹ thành 'quả bom hẹn giờ' có thể dẫn đến khủng hoảng cho toàn bộ nền kinh tế thế giới.

(Ảnh minh họa: Getty Images).
Anh, Pháp và Mỹ đều là những nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Cả ba cũng có một điểm chung: nợ công cao đến mức đáng ngại.
Tại Anh và Pháp, áp lực tài khóa trong những năm gần đây từng khiến liên tiếp nhiều chính phủ sụp đổ và lãnh đạo mất chức. Ở Mỹ, tranh cãi về ngân sách có vẻ ít căng thẳng hơn, nhưng quy mô và vai trò trong hệ thống tài chính toàn cầu khiến rủi ro nợ công của Mỹ nguy hiểm hơn nhiều.
Nếu Pháp hay Anh gặp khủng hoảng nợ công, hậu quả có thể sẽ chỉ giới hạn trong khu vực. Nhưng nếu Mỹ vấp ngã, toàn bộ nền kinh tế thế giới có thể rung chuyển.

Pháp
Pháp là một trong những quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất Liên minh châu Âu (EU), đạt 116,5% vào năm 2024, chỉ sau Hy Lạp và Italy.
Pháp thâm hụt ngân sách triền miên kể từ năm 1974. Kết quả, chính phủ liên tục phải vay nợ để duy trì chi tiêu, dẫn đến quy mô nợ ngày càng lớn.
Pháp không thể trông chờ nền kinh tế sẽ tăng trưởng đủ nhanh để giúp chính phủ gia tăng nguồn thu thuế. Dân số già hóa khiến lực lượng lao động của nước này gần như không tăng trưởng, còn năng suất lao động thì đã giảm kể từ đầu thập niên 2000. Dữ liệu từ World Bank cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của Pháp trong 10 năm qua chỉ vào khoảng 1,2%.
Sau khi đắc cử vào năm 2017, Tổng thống Emmanuel Macron từng cố kích thích tăng trưởng bằng cách mạnh tay cắt giảm thuế cho doanh nghiệp và giới giàu có. Tuy nhiên, chính sách này không đạt hiệu quả, còn khiến ngân sách hụt thu hàng chục tỷ USD.
Giải pháp dễ thấy nhất là cắt giảm chi tiêu chính phủ, nhưng thực hiện không hề dễ dàng, một phần do người Pháp rất coi trọng hệ thống phúc lợi xã hội hào phóng. Vào năm 2023, chính phủ đã chi số tiền tương đương với 57% GDP cho các chương trình y tế, giáo dục, văn hóa và quốc phòng, cùng với các khoản trợ cấp hưu trí và thất nghiệp khác.
Bất kỳ chính trị gia nào đề xuất cắt giảm chi tiêu chính phủ cũng vấp phải phản đối dữ dội. Thủ tướng Pháp François Bayrou đã bị lật đổ vào đầu tháng 9 vì đề xuất cắt giảm chi tiêu công 44 tỷ USD, bao gồm hủy bỏ hai dịp nghỉ lễ và giảm trợ cấp cho y tế.
Nếu không có cải cách quyết liệt, các nhà kinh tế của Ủy ban châu Âu dự đoán tỷ lệ nợ công/GDP của Pháp sẽ tăng lên 130% sau một thập kỷ.

Anh
Tại Anh, nợ công tương đương 93% GDP năm 2024. Tuy tỷ lệ nợ công thấp hơn Pháp, Anh cũng đối mặt với các thách thức tương tự: hiện tượng già hóa dân số và tốc độ tăng trưởng năng suất thấp khiến nền kinh tế trở nên trì trệ. Trong một thập kỷ qua, trung bình tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Anh chỉ đạt 1,6%.
Lãi vay là gánh nặng đáng kể với chính phủ. Năm ngoái, chi phí trả lãi chiếm hơn 8% chi tiêu công và cao gần gấp đôi chi tiêu cho quốc phòng. Tờ Financial Times còn cho rằng Pháp và Anh hợp tác về mặt quốc phòng vì cả hai đều cần tiết kiệm tiền bạc.
Nỗi lo nợ công cũng từng khiến chính trường Anh chấn động. Vào năm 2022, chính quyền của Thủ tướng Liz Truss đã đưa ra các đề xuất cắt giảm thuế táo bạo được tài trợ bằng nợ vay.
Thị trường tài chính phản ứng bằng cách bán tháo trái phiếu và đồng bảng Anh, khiến ngân hàng trung ương phải can thiệp khẩn cấp. Bà Truss phải từ chức chỉ sau 44 ngày cầm quyền, trở thành thủ tướng có thời gian tại nhiệm ngắn nhất lịch sử Anh.
Trong năm 2025, vấn đề nợ công và ngân sách lại một lần nữa khiến chính trường Anh dậy sóng. Văn phòng Trách nhiệm Ngân sách Anh dự kiến sẽ hạ dự báo về năng suất, tạo ra lỗ hổng 20 tỷ bảng Anh trong ngân sách năm sau.
Nhiều khả năng chính phủ Anh sẽ phải tăng mạnh thuế để vá lỗ hổng này. Thuế tăng sẽ cản trở tiềm năng tăng trưởng GDP, trong khi đó nền kinh tế đang giảm tốc rõ rệt: GDP quý II của Anh chỉ tăng trưởng 0,3% so với quý I.
Nếu kế hoạch ngân sách năm tới thiếu tính thuyết phục, niềm tin thị trường có thể tiếp tục bị thử thách, làm trầm trọng thêm cuộc bán tháo trái phiếu chính phủ đã bắt đầu từ quý III.

Mỹ
Vào năm ngoái, tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ đạt 122,9%, cao hơn cả hai quốc gia châu Âu kể trên. Về quy mô tuyệt đối, Mỹ là con nợ lớn nhất thế giới, với tổng nợ liên bang vượt 35.000 tỷ USD.
Trong năm tài khóa 2024, chi phí trả lãi vay ròng của chính phủ đã tăng 34% lên 949 tỷ USD - lần đầu tiên vượt cả chi tiêu cho quốc phòng. Một phần nguyên nhân là quy mô nợ công liên tục tăng, phần khác là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn đang duy trì lãi suất cao để chống lạm phát.
Giống với Anh và Pháp, các chính trị gia Mỹ có xu hướng ủng hộ những chính sách sẽ khiến nợ công tăng cao hơn nữa.
Trong năm nay, Tổng thống Donald Trump đã ban hành “Đạo luật Thuế To lớn và Đẹp đẽ”, cắt giảm một số chương trình y tế và phúc lợi cho người nghèo, nhưng gia hạn giảm thuế cho doanh nghiệp. Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) ước tính đạo luật sẽ khiến nợ công tăng thêm 3.300 tỷ USD trong vòng 10 năm.
Mỹ đã bị ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu hạ khỏi bậc tín nhiệm cao nhất. Lợi thế vay giá rẻ của chính phủ Mỹ đang bị bào mòn. Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm đang dao động quanh 4,1%, cao hơn 2 điểm % so với mức trung bình trong giai đoạn 2012 - 2016.
Ngay Bộ trưởng Bộ Tài chính Scott Bessent cũng có vẻ lo ngại về năng lực trả nợ vay kỳ hạn dài của chính phủ. Trong tháng 7, ông cho biết chính phủ sẽ không tăng cường phát hành trái phiếu kỳ hạn dài vì chiến lược này không phù hợp trong bối cảnh lợi suất cao như hiện nay.
Nếu thói quen chi tiêu của chính phủ không đổi và chương trình giảm thuế của ông Trump liên tục được gia hạn, Bộ Tài chính dự báo tỷ lệ nợ công/GDP sẽ vượt 200% vào năm 2050. Một số chuyên gia cảnh báo đây là “giới hạn chết chóc”. Ở mức này, Mỹ có khả năng cao sẽ vỡ nợ hoặc lâm vào một cuộc khủng hoảng lâu dài.

Lý do nợ công của Mỹ đáng ngại hơn Anh và Pháp
Về bản chất, những gì đang diễn ra ở Mỹ mang nhiều nét tương đồng với châu Âu. Từ năm 2002 đến nay, ngân sách liên bang liên tục thâm hụt, buộc chính phủ phải vay thêm nợ. Khoản lãi phải trả ngày càng lớn, buộc Mỹ phải đi vay thêm để đảo nợ – tạo thành vòng xoáy nợ chồng chất.
Già hóa dân số cũng là yếu tố khiến gánh nặng tài khóa phình to. Theo dự báo của Trung tâm Mercatus thuộc Đại học George Mason, các khoản phúc lợi cho người cao tuổi sẽ chiếm đến 50% ngân sách chính phủ vào năm 2030.
Hệ thống chính trị Mỹ cũng bị chia rẽ sâu sắc. Trong khi Đảng Cộng hòa kiên quyết phản đối tăng thuế, Đảng Dân chủ lại không muốn cắt giảm chi tiêu cho phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên, Mỹ cũng có những lý riêng khiến vấn đề nợ công trở nên rất khó giải quyết.
Thứ nhất là chính sách nhập cư kém thân thiện. Mỹ vốn hưởng lợi từ lao động nước ngoài, nhưng các chính sách siết chặt thị thực và trục xuất người nhập cư bất hợp pháp của chính quyền Tổng thống Trump đang khiến lực lượng lao động nhập cư sụt giảm.
GDP Mỹ tăng trưởng 2,8% vào năm 2024, tương đối nhanh so với các nền kinh tế lớn phương Tây. Tuy nhiên, CBO dự đoán tốc độ này sẽ giảm còn 1,8% từ năm 2026 trở đi khi lực lượng lao động gần như không mở rộng.
Khi tăng trưởng kinh tế giảm tốc mà chi tiêu chính phủ vẫn tăng, gánh nặng nợ sẽ càng dễ mất kiểm soát.
Thứ hai, căng thẳng địa chính trị và chiến tranh thương mại có thể đe dọa thị trường trái phiếu kho bạc. Cuối quý II/2025, các chủ nợ nước ngoài nắm giữ hơn 25% nợ chính phủ Mỹ. Nếu các nhà đầu tư này tìm cách đa dạng hóa sang các tài sản khác, nhu cầu dành cho trái phiếu kho bạc sẽ giảm mạnh, kéo lợi suất tăng vọt, đe dọa khả năng trả nợ của chính phủ.
Nếu Mỹ rơi vào khủng hoảng nợ công, tác hại với nền kinh tế thế giới sẽ đáng sợ hơn nhiều tình trạng bất ổn mà Pháp và Anh đang gây ra với thị trường tài chính toàn cầu.
Trước hết là về quy mô tuyệt đối: nợ chính phủ Mỹ năm 2024 vào khoảng 35.200 tỷ USD, tương ứng hơn 34% tổng nợ công toàn cầu. Nếu Pháp khó thanh toán nợ, các nước thuộc khối Liên minh châu Âu có thể chung sức hỗ trợ, còn trong trường hợp của Mỹ, khó có quốc gia hay tổ chức nào có khả năng giúp đỡ nước này.
Thứ hai, trái phiếu kho bạc Mỹ không chỉ là công cụ tài trợ cho ngân sách của Washington mà còn là “huyết mạch” của hệ thống tài chính quốc tế. Nếu Mỹ mất khả năng thanh toán nợ vay, thị trường tín dụng toàn cầu sẽ nhanh chóng đóng băng, các thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ, châm ngòi cho khủng hoảng toàn cầu.
Các nền kinh tế đang phát triển sẽ chịu ảnh hưởng đặc biệt nặng nề. Trong bối cảnh rủi ro gia tăng, nhiều khả năng các nhà đầu tư toàn cầu sẽ rút vốn khỏi những thị trường này để đổ vào những tài sản an toàn còn lại. Trong kịch bản đó, đồng nội tệ các nước đang phát triển sẽ mất giá mạnh, khiến gánh nặng nợ vay bằng ngoại tệ càng chồng chất và lạm phát trong nước leo thang.