Sáu vùng kinh tế 6 cực tăng trưởng

Quyết định của Bộ Chính trị phân chia lãnh thổ Việt Nam thành 6 vùng kinh tế được xem là một bước ngoặt chiến lược trong tư duy phát triển quốc gia. Đây không chỉ là sự sắp xếp lại không gian kinh tế, mà còn là thông điệp về khát vọng tăng trưởng nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng. Tuy nhiên, để chủ trương này phát huy hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải xây dựng cơ chế điều phối cấp vùng đủ mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương.

Sáu vùng kinh tế - một tầm nhìn chiến lược

Theo nghị quyết mới của Bộ Chính trị, lãnh thổ Việt Nam được phân chia thành 6 vùng kinh tế: Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Khác với cách quản lý hành chính trước đây, sự phân chia này dựa trên đặc điểm địa lý, lịch sử, kinh tế và văn hóa của từng khu vực. Đây là sự điều chỉnh mang tính chiến lược, nhằm khắc phục tình trạng phát triển cục bộ, tạo nền tảng cho việc quy hoạch đồng bộ, khai thác tối đa tiềm năng và thúc đẩy liên kết vùng.

Trong kỷ nguyên cạnh tranh toàn cầu, các quốc gia thành công đều dựa vào mô hình phát triển vùng để hình thành các cực tăng trưởng, các trung tâm động lực. Việt Nam với 34 tỉnh, thành – đa phần có quy mô nhỏ – càng cần một chiến lược phát triển liên kết vùng để tránh manh mún, tạo sức mạnh tổng hợp.

 PGS.TSKH Võ Đại Lược - nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới. Ảnh: Như Ý

PGS.TSKH Võ Đại Lược - nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới. Ảnh: Như Ý

Trao đổi với PV Tiền Phong, PGS.TSKH Võ Đại Lược - nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới phân tích, thực tế nhiều năm qua cho thấy, mỗi địa phương thường “mạnh ai nấy làm”, dẫn tới tình trạng quy hoạch chồng chéo, cạnh tranh không lành mạnh và đầu tư dàn trải. Ví dụ, nhiều tỉnh đều muốn xây dựng sân bay, trường đại học, cảng biển riêng, khiến nguồn lực bị phân tán, hiệu quả thấp.

Ông Lược cho rằng, một cơ quan điều phối cấp vùng là mảnh ghép không thể thiếu để khắc phục hạn chế này.

“Cơ quan này sẽ giúp điều phối phát triển hợp lý và tránh việc địa phương giàu thì giàu thêm, còn địa phương nghèo thì mãi lạc hậu. Trường hợp Đà Nẵng phát triển vượt trội so với các tỉnh miền Trung lân cận là minh chứng rõ nét cho sự chênh lệch”, ông Lược nói.

Theo ông Lược, cần tập trung nguồn lực từ quy hoạch hạ tầng theo vùng sẽ giúp hình thành hành lang kinh tế, hành lang giao thông thông suốt, thay vì đầu tư manh mún theo tỉnh. Việt Nam có nhiều tỉnh thành nhỏ, trong khi các nước như Trung Quốc hay Ấn Độ, mỗi tỉnh có quy mô tương đương một quốc gia vừa. Vì vậy, nếu không có cơ chế điều phối vùng, sự cạnh tranh cục bộ sẽ triệt tiêu lợi thế liên kết.

Cần ban chỉ đạo cấp vùng

Ông Lược nhấn mạnh, cần có một giải pháp khả thi là thành lập Ban chỉ đạo cấp vùng. Cơ quan này hoạt động như “nhạc trưởng” điều phối chiến lược phát triển trong từng vùng. Theo đó, người đứng đầu là Trưởng ban có thể đưa lãnh đạo cao nhất của tỉnh đầu tàu trong vùng. Trong thực tế, Thủ tướng Phạm Minh Chính từng trực tiếp chủ trì hội nghị phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng, cho thấy Chính phủ đã có bước đi ban đầu theo hướng này.

“Chúng ta cần có khung pháp lý rõ ràng. Đây là yếu tố quyết định. Nếu không có nghị định hoặc luật riêng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, ngân sách và quyền hạn, Ban chỉ đạo vùng khó hoạt động hiệu quả”, ông Lược cho hay.

Ông Lược cho biết thêm, Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Ví dụ như Trung Quốc, dù có các tỉnh quy mô lớn, vẫn tổ chức điều phối vùng, điển hình như cơ chế phát triển khu vực sông Dương Tử. Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo mô hình này để xây dựng khung thể chế phù hợp.

Ông Võ Đại Lược nhấn mạnh: “Điểm cốt lõi của việc phân vùng không phải là bản đồ, mà là liên kết kinh tế. Chỉ khi các địa phương trong cùng một vùng phối hợp bổ sung thế mạnh cho nhau, vùng mới có thể hình thành cực tăng trưởng thực sự”.

Nói đến liên kết vùng, ông Lược chỉ ra ba phương diện. Thứ nhất, về lĩnh vực kinh tế cần Xây dựng chuỗi giá trị liên tỉnh – từ sản xuất nguyên liệu, chế biến đến xuất khẩu. Ví dụ, Đồng bằng sông Cửu Long cần một chiến lược chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, thay vì mỗi tỉnh đều sản xuất gạo, thủy sản riêng lẻ.

Thứ hai về thể chế - chính trị cần cơ quan chỉ đạo đủ mạnh để đảm bảo sự thống nhất, tránh tình trạng “hội nghị nhiều, hành động ít”. Thứ ba về hạ tầng – giao thông, không thể chỉ quy hoạch trong phạm vi một tỉnh hay thậm chí một vùng, mà phải kết nối toàn quốc. Cao tốc Bắc – Nam, đường sắt tốc độ cao, hệ thống cảng biển và hàng không quốc tế cần được thiết kế như một chỉnh thể.

Ông Lược cũng chỉ ra đặc điểm của từng vùng kinh tế để phát triển. Cụ thể, Trung du và miền núi phía Bắc: Giàu tài nguyên khoáng sản, thủy điện và du lịch sinh thái, nhưng địa hình hiểm trở, hạ tầng yếu kém. Nếu có cơ quan điều phối vùng, nơi đây có thể khai thác tiềm năng kinh tế xanh, phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số.

Đồng bằng sông Hồng: Là “trái tim” kinh tế – chính trị của cả nước, có lợi thế về công nghiệp, dịch vụ và hạ tầng. Tuy nhiên, áp lực đô thị hóa và ô nhiễm đang gia tăng. Cơ chế vùng sẽ giúp Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh phối hợp để phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp - dịch vụ chất lượng cao.

Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ: Dài và hẹp, nhiều cảng biển, du lịch phong phú, nhưng còn nghèo và dễ bị tổn thương bởi thiên tai. Liên kết vùng sẽ giúp hình thành hành lang kinh tế ven biển, tránh tình trạng “mạnh ai nấy xây cảng”.

Tây Nguyên: Trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước với lợi thế gió, mặt trời, đồng thời giàu tiềm năng nông nghiệp công nghệ cao. Nhưng hạn chế lớn là thiếu kết nối giao thông và nguồn nhân lực. Điều phối vùng có thể giúp Tây Nguyên trở thành “thủ phủ năng lượng sạch” của Việt Nam.

Đông Nam bộ: Vùng phát triển năng động nhất cả nước, đầu tàu công nghiệp – dịch vụ, với TPHCM, Bình Dương, Đồng Nai. Tuy nhiên, áp lực hạ tầng, môi trường và dân số rất lớn. Một cơ chế vùng mạnh sẽ giúp giải quyết bài toán giao thông kết nối, chuỗi logistics và đô thị hóa bền vững.

Việc phân chia sáu vùng kinh tế là bước đi mang tính lịch sử trong tư duy phát triển đất nước. Song, bản thân nó mới chỉ là khung khổ. Để khát vọng vươn mình trở thành hiện thực, cần gấp rút xây dựng cơ quan điều phối vùng có thực quyền, khung pháp lý rõ ràng và cơ chế liên kết chặt chẽ. Khi các vùng kinh tế được vận hành hiệu quả, Việt Nam sẽ có thêm động lực mạnh mẽ để bứt phá, tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

Đồng bằng sông Cửu Long: Vựa lúa và thủy sản của cả nước, nhưng đối diện biến đổi khí hậu nghiêm trọng. Liên kết vùng sẽ giúp xây dựng chiến lược chuyển đổi nông nghiệp xanh, áp dụng công nghệ mới, thay đổi tư duy từ sản lượng sang giá trị.

“Trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số và trở thành quốc gia thu nhập cao, việc chia 6 vùng kinh tế là bước đi đúng hướng. Nếu làm tốt, chúng ta sẽ có: Các cực tăng trưởng mới: Mỗi vùng sẽ hình thành những trung tâm động lực, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào Hà Nội và TPHCM. Nền kinh tế cân bằng và bền vững hơn: Khoảng cách phát triển vùng miền được thu hẹp, giảm áp lực di cư lao động. Khả năng cạnh tranh quốc tế cao hơn: Khi các vùng kinh tế kết nối với nhau, Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Lược nói.

Ngọc Mai

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/sau-vung-kinh-te-6-cuc-tang-truong-post1785217.tpo