Ba mẹ cho đất trong thời kỳ hôn nhân, khi ly hôn có phải chia cho chồng không?

*Bạn đọc hỏi: chị Trương Thị H., trú H.Quế Sơn (Quảng Nam) hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn vào năm 2017 và có với nhau được hai người con. Vào năm 2020, tôi được ba mẹ ruột cho một mảnh đất có diện tích 260m2 tại H.Thăng Bình (Quảng Nam). Việc tặng cho này đã được lập thành văn bản và hoàn tất thủ tục đăng ký biến động cũng như xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong khoảng thời gian chung sống với nhau, vợ chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc, đời sống hôn nhân không thể tiếp tục nên chúng tôi có ý định ly hôn. Cho tôi hỏi khi ly hôn, mảnh đất do ba mẹ cho tôi có phải chia cho chồng tôi không?

Luật sư Trương Đức Trung

Luật sư Trương Đức Trung

*Luật sư Trương Đức Trung (Trưởng chi nhánh Quảng Nam - Văn phòng Luật sư Phong & Partners) trả lời:

Khi vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc, ly hôn có thể là một quyết định khó khăn nhưng cũng là giải pháp tốt nhất để cả hai chấm dứt mối quan hệ không thể cứu vãn và bắt đầu lại một cuộc sống mới. Khi quyết định ly hôn, bên cạnh vấn đề con cái, việc phân chia tài sản cũng gặp nhiều khó khăn, thậm chí có những trường hợp vợ chồng không thể tự thỏa thuận mà phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án.

Để bảo đảm được quyền lợi của các bên đối với việc phân chia tài sản khi ly hôn, đầu tiên cần phải xác định tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ chồng. Theo đó, khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Bên cạnh đó, tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các tài sản theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:

“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

Trong trường hợp của chị H., theo thông tin chị cung cấp, chị được bố mẹ ruột tặng cho mảnh đất trong thời kỳ hôn nhân và việc tặng cho đã được lập thành văn bản. Để xác định mảnh đất trên là tài sản chung hay tài sản riêng thì cần phải xem xét dựa trên hợp đồng tặng cho và các tài liệu khác, có thể xảy ra các trường hợp sau:

Trường hợp 1: Hợp đồng tặng cho ghi rõ rằng chỉ cho riêng cho chị H., đồng thời giữa vợ chồng chị H. không có bất kỳ thỏa thuận khác liên quan đến vấn đề tài sản này thì trong trường hợp này, mảnh đất trên là tài sản thuộc sở hữu riêng của chị H. theo khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình. Do đó, nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được căn cứ theo khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:

“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.”

Theo quy định trên, nếu mảnh đất chị H. được ba mẹ tặng cho riêng chưa nhập vào khối tài sản chung thì khi ly hôn mảnh đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của chị H., chồng chị H. không có quyền yêu cầu chia phần đất này. Tuy nhiên, nếu trong quá trình chung sống, vợ chồng chị H. đã cùng đóng góp tài chính, công sức vào việc xây dựng, tôn tạo tài sản riêng này, chẳng hạn như xây nhà, làm công trình phụ trên đất… thì khi ly hôn, Tòa án sẽ xem xét phân chia tài sản phù hợp với công sức đóng góp của chồng chị H. vào khối tài sản này.

Trường hợp 2: Khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định rõ: “Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.”, tức là, trong trường hợp Hợp đồng tặng cho xác định rõ đây là tài sản tặng cho riêng nhưng chị H. đã nhập mảnh đất này vào khối tài sản chung của vợ chồng thì mảnh đất đó được xác định là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Điều 46 Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 quy định về việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung như sau:

“1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.

2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.

3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng, được lập thành văn bản và thực hiện công chứng để đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận. Khi đã nhập vào tài sản chung, khi ly hôn tài sản này được phân chia cho chồng của chị.

Trường hợp 3: Trong hợp đồng tặng cho có xác định rõ người được tặng cho bao gồm cả chị H. và chồng của chị thì theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mảnh đất trên được xem là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, theo khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mảnh đất đó sẽ được chia đôi khi ly hôn, cụ thể như sau:

“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”

Như vậy, khi mảnh đất được xác định là tài sản chung của vợ chồng chị H. trong thời kỳ hôn nhân, việc phân chia mảnh đất khi vợ chồng chị H. ly hôn sẽ tuân theo nguyên tắc mỗi người được hưởng 50% giá trị của mảnh đất đó. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, Tòa án còn phải xem xét đến một số yếu tố khác như hoàn cảnh riêng của mỗi bên; công sức đóng góp của vợ, chồng; lỗi của vợ, chồng... Vì thế, trong nhiều trường hợp tài sản có thể được chia không đồng đều, có thể theo tỷ lệ 60:40, 70:30, 80:20, v.v… tùy vào tình tiết của vụ việc.

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.”

Trong trường hợp này của chị H., sau khi Tòa án xem xét và quyết định phân chia, nếu chị H. được nhận mảnh đất thì chị phải thanh toán cho chồng chị phần giá trị mảnh đất tương ứng mà chồng chị được hưởng bằng tiền mặt. Ngược lại, nếu chồng chị H. nhận mảnh đất thì anh ấy phải thanh toán lại cho chị H.

Ngoài các trường hợp phân chia tài sản khi ly hôn như trên, pháp luật cũng cho phép vợ chồng tự thỏa thuận về việc phân chia tài sản. Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau: “Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản.”. Như vậy, nếu vợ chồng chị H. có thể thỏa thuận được mảnh đất ba mẹ tặng cho chị H. là tài sản riêng của chị H. và chồng chị H. không yêu cầu phân chia thì dù có hợp đồng tặng cho xác định đây là tài sản tặng cho chung hay giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng ghi tên cả hai vợ chồng thì đây vẫn được công nhận là tài sản riêng của chị H. Để được pháp luật công nhận, chị H. và chồng cần lập một thỏa thuận về tài sản, thực hiện công chứng để đảm bảo tính pháp lý và tránh các tranh chấp sau này.

Tóm lại, việc xác định mảnh đất mà chị H. được ba mẹ tặng trong thời kỳ hôn nhân có phải chia cho chồng khi ly hôn hay không còn phụ thuộc vào việc làm rõ mảnh đất đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng, có thỏa thuận tài sản nào của vợ chồng không. Do đó, cần phải căn cứ vào hợp đồng tặng cho cũng như các tài liệu và chứng cứ liên quan khác để xác định bản chất của tài sản này. Từ đó, giúp quá trình phân chia tài sản khi ly hôn diễn ra chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho cả chị H. và chồng chị.

Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners.

Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425

Nguồn CAĐN: https://cadn.com.vn/ba-me-cho-dat-trong-thoi-ky-hon-nhan-khi-ly-hon-co-phai-chia-cho-chong-khong-post310942.html